Nghiên cứu cải tiến vũ khí phục vụ chiến trường miền Nam

7/28/2023 2:45:29 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 307

CNQP&KT - Thực hiện kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961-1965), Quân ủy Trung ương đã đề ra những yêu cầu cụ thể, trong đó tập trung nghiên cứu cải tiến, sản xuất vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam và phục vụ xây dựng Quân đội.

Thực hiện nghị quyết của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, ngày 23/3/1962, Thiếu tướng Trần Quý Hai, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 442/QĐ ban hành “Quy định nhiệm vụ Cục Quân giới, chức trách Cục trưởng, tổ chức biên chế Cục Quân giới”. Tổ chức Cục Quân giới bao gồm khối cơ quan có 8 phòng, ban chuyên môn và các đơn vị cơ sở. Trong đó, Ban Kỹ thuật là cơ quan kế tục thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu Quân giới trước đây, có nhiệm vụ: nghiên cứu thiết kế mới và cải tiến vũ khí theo yêu cầu trang bị của bộ đội… Đồng chí Nguyễn Văn Tài được chỉ định làm Trưởng ban và đồng chí Nguyễn Văn Thu làm Phó ban (cả 2 đồng chí đều là cán bộ của Viện Nghiên cứu Quân giới trước đây). Sau khi thành lập, Ban Kỹ thuật bắt tay ngay vào nghiên cứu thiết kế sản phẩm vũ khí theo kế hoạch; đồng thời phối hợp với các nhà máy nghiên cứu sửa chữa, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT), phụ tùng và chi tiết thay thế; tham gia các kế hoạch đột kích chuẩn bị vũ khí chi viện cho miền Nam.

Trước đó, vào tháng 1/1961, Quân ủy Trung ương đã ra chỉ thị thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, đặc biệt, sau khi có Nghị quyết về “Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam” (ngày 16/2/1962), lực lượng vũ trang ba thứ quân ở miền Nam đã tăng lên nhanh chóng. Để tạo nguồn vũ khí cung cấp kịp thời cho chiến trường miền Nam, Bộ Quốc phòng chủ trương phải tận dụng triệt để nguồn vũ khí chiến lợi phẩm thu được của thực dân Pháp trước đây. Do vậy, tháng 3/1962, Cục Quân giới đã giao nhiệm vụ cải biên súng tiểu liên Tuyn (của Pháp) cho các nhà máy để gửi gấp vào chiến trường. Ban Kỹ thuật đã phối hợp chặt chẽ với cán bộ kỹ thuật của các nhà máy nghiên cứu cải biên súng tiểu liên Tuyn. Công việc bắt đầu từ thay nòng súng sử dụng đạn cỡ 9mm để có thể bắn được đạn súng K50 cỡ 7,62mm; làm lại đầu ngắm và sửa lại băng đạn để lắp được 32 viên đạn K50. Nhờ có sự phối hợp nhịp nhàng giữa cán bộ nghiên cứu với công nhân sản xuất, chỉ trong thời gian ngắn, súng tiểu liên Tuyn đã được cải biên thành công.

Cùng với đó, Ban Kỹ thuật đã tham gia nghiên cứu cải biên súng tiểu liên K50 với yêu cầu tạo hình dáng bên ngoài giống tiểu liên Tuyn, đưa vào trang bị cho lực lượng vũ trang miền Nam. Sau khi được cải biên, súng có kết cấu gọn nhẹ, thuận tiện trong vận chuyển và chiến đấu nhưng vẫn giữ được tính năng của tiểu liên K50. Trong 2 năm (1962-1963), hơn 2.000 súng tiểu liên Tuyn và gần 7.000 súng K50 đã được chuyển vào miền Nam, góp phần làm phá sản chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.


Sản xuất ngòi 1A tại Phân xưởng A3, Nhà máy Z129 trong kháng chiến chống Mỹ.    Ảnh: TL

Cũng trong thời gian này, nhu cầu vũ khí của chiến trường miền Nam rất lớn nhưng theo Hiệp định Giơnevơ, chúng ta không thể đưa vũ khí của các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ vào miền Nam, do lo ngại Mỹ - Ngụy sẽ kiếm cớ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Trước tình hình đó, cuối năm 1961, Bộ Tổng Tham mưu đã giao nhiệm vụ cho Cục Quân giới tập trung nghiên cứu chế tạo ra một loại vũ khí có tính năng tương tự như súng chống tăng B40 của Liên Xô. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu, đồng chí Nguyễn Duy Thái, Cục trưởng Cục Quân giới, chỉ định đồng chí Nguyễn Văn Tài, Trưởng ban Kỹ thuật, chủ trì đề tài nghiên cứu; đồng chí Nguyễn Huy Bổng và đồng chí Hoàng Địch, trợ lý Ban Kỹ thuật được phân công tham gia nhóm nghiên cứu đề tài.

Để đạt được yêu cầu kỹ thuật xuyên thép 300mm, xuyên bê tông 600mm của súng chống tăng, nhóm nghiên cứu phải tiến hành khảo sát các loại súng, đạn và nghiên cứu tài liệu kỹ thuật để xác định sơ bộ các thông số kỹ thuật. Từ kinh nghiệm rút ra qua việc nghiên cứu sản xuất súng, đạn SKZ của Nha Nghiên cứu kỹ thuật thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Trưởng ban Nguyễn Văn Tài đã đề xuất thiết kế một loại súng B50 (về sau đổi thành CT-62); đồng thời, bắt tay ngay vào công việc tính toán và lập bản vẽ thiết kế.

Ban Kỹ thuật cùng cán bộ của một số nhà máy nghiên cứu, chế thử và tổ chức các cuộc thử nghiệm để xác định các thông số cho từng chi tiết của súng và đạn. Do gặp rất nhiều khó khăn về nguyên vật liệu nên việc thiết kế và thử nghiệm đã phải kéo dài hơn dự kiến ban đầu. Cuối năm 1962, trong lần thử nghiệm tại trường bắn của Nhà máy Z2 (nay là Nhà máy Z113), nòng súng bị vỡ ngay từ phát bắn đầu tiên. Sau đó, nhóm nghiên cứu xác định được nguyên nhân gây vỡ nòng là do thuốc liều phóng tạo ra áp suất nòng quá lớn. Đầu năm 1963, hàng chục cuộc thử nghiệm về độ xuyên thép của đạn, độ an toàn, độ giật của súng được nhóm nghiên cứu tiến hành và đều đạt yêu cầu kỹ thuật nên đến giữa năm 1963, Cục Quân giới quyết định sản xuất thử lô đầu tiên súng, đạn B50. Nhà máy Z1 (nay là Nhà máy Z111) được giao nhiệm vụ sản xuất súng và các chi tiết cơ khí của đạn; Nhà máy Z2 sản xuất hạt lửa, ống nổ và nhồi lắp đạn.

Năm 1965, Cục Quân giới biên soạn tài liệu và tổ chức huấn luyện kỹ thuật sản xuất mìn MĐH.10 cho một số cán bộ, công nhân để vào giúp các xưởng Quân giới ở miền Nam sản xuất tại chỗ.

Ngày 26/8/1963, cuộc bắn thử tổng hợp CT62 đã được tổ chức tại Trường bắn Quốc gia. Qua bắn thử, súng đạn B50 đã đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, tầm bắn xa nhất 150m; tầm bắn hiệu quả 100m; độ xuyên thép 320mm; độ xuyên bê tông 750mm. Với kết quả trên, đầu năm 1964, B50 được Cục Quân giới đưa vào sản xuất loạt “0” gồm 54 khẩu súng và 3.726 viên đạn. Năm 1965, Nhà máy Z1 và Nhà máy Z2  sản xuất được một số súng, đạn B50 và gửi ngay vào chiến trường miền Nam.

Tiếp đó, để chống xe tăng và xe bọc thép của Mỹ - Ngụy, giữa năm 1963, Cục Quân giới giao cho Ban Kỹ thuật nghiên cứu cải tiến đạn AT. Đây là loại đạn đã được Nha Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất thành công từ cuối năm 1947 và đưa vào trang bị cho bộ đội trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Tuy nhiên, do có những hạn chế về công nghệ chế tạo nên hiệu quả chiến đấu chưa cao. Ban Kỹ thuật đã tiến hành kiểm tra đạn AT sản xuất trước đây. Qua nhiều lần thử nổ xuyên tĩnh vào các loại mục tiêu khác nhau, cũng như qua nghiên cứu bản vẽ thiết kế và tài liệu có liên quan, Ban Kỹ thuật hướng dẫn Nhà máy Z2 tiến hành nhồi lắp đạn và tổ chức thử nổ xuyên tĩnh vào đích thép thành công, đạn đạt độ xuyên thép từ 120 đến 160mm. Cuối năm 1963, đạn AT được Cục Quân giới đưa vào sản xuất loạt “0” tại Nhà máy X10 và bắn thử nghiệm ổn định, đạt sơ tốc 50m/s, tầm bắn hiệu quả 50m, độ xuyên thép 100mm. Cục Quân giới giao cho Nhà máy X10 và Nhà máy Z2 phối hợp sản xuất phục vụ chiến trường miền Nam.

Bên cạnh đó, Ban Kỹ thuật còn thiết kế và đưa vào sản xuất các loại ống phóng AT lắp với súng trường Mỹ; ống phóng lắp với súng trường K44; thước ngắm bắn đạn AT của Mỹ, một loại thước ngắm mới lắp với súng trường CKC… kịp thời trang bị cho các lực lượng vũ trang đánh địch.

Vào cuối năm 1962, dựa vào những hiểu biết về lý thuyết nổ lõm và đặc biệt là những thông tin do đồng chí Nguyễn Duy Thái cung cấp về một loại mìn có tên gọi là MON của Liên Xô, Cục Quân giới có chủ trương nghiên cứu chế tạo mìn phóng mảnh định hướng (MĐH.10). Đầu năm 1963, Ban Kỹ thuật đã triển khai nghiên cứu đề tài mìn phóng mảnh định hướng. Nhóm nghiên cứu do đồng chí Nguyễn Văn Tài chủ trì. Trên cơ sở những thông số đã được nghiên cứu, tính toán như: số lượng mảnh, tốc độ ban đầu của mảnh, góc lõm... và đối chiếu với các số liệu do đồng chí Nguyễn Duy Thái cung cấp, đồng chí Hoàng Địch đã thiết kế và thử kiểu mìn định hướng, ký hiệu là MĐH.10.  Sau nhiều lần thử nghiệm, mìn MĐH.10 đạt được tính năng tương đương với mìn MON của Liên Xô. Tháng 10/1963, tại trường bắn của Nhà máy Z2, Cục Quân giới đã tổ chức thử nổ trình diễn đạt kết quả tốt. Đầu năm 1964, mìn MĐH.10 được đưa vào sản xuất loạt tại các nhà máy Quân giới ở miền Bắc với số lượng lớn trang bị cho bộ đội tiêu diệt bộ binh, phá hàng rào dây thép gai, đánh máy bay trực thăng địch trên chiến trường miền Nam. Đến năm 1965, Cục Quân giới biên soạn tài liệu và tổ chức huấn luyện kỹ thuật sản xuất mìn MĐH.10 cho một số cán bộ, công nhân các nhà máy Quân giới miền Bắc để vào giúp các xưởng Quân giới ở miền Nam sản xuất tại chỗ và nghiên cứu thiết kế, chế tạo mìn MĐH.5, MĐH.7, MĐH.12.

Sau phong trào Đồng khởi, lực lượng vũ trang miền Nam phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, hình thức tác chiến trên các chiến trường cũng ngày càng đa dạng. Để chuẩn bị vũ khí cho lực lượng biệt động hoạt động trong các đô thị, từ năm 1961, Bộ Công an đã đặt vấn đề với Cục Quân giới nghiên cứu sản xuất ngòi nổ chậm. Cục Quân giới giao cho đồng chí Nguyễn Văn Thu, Phó ban Kỹ thuật, là người đã tham gia nghiên cứu sản xuất ngòi nổ chậm trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp chủ trì thực hiện nhiệm vụ này.

Dựa vào các thông số kỹ thuật của ngòi nổ chậm sử dụng dung dịch Sunphat đồng và phụ gia axít đã từng được chế tạo tại Xưởng K6 (chùa Hương) thời chống Pháp, nhóm nghiên cứu đã cải tiến theo hướng rút gọn kích thước ngòi và ổn định nồng độ dung dịch để có thể quy định chính xác thời gian nổ chậm. Đầu năm 1964, nhóm nghiên cứu đã hoàn thành bản vẽ thiết kế (ký hiệu MI.8). Sau nhiều lần thử nghiệm, ngòi MI.8 đạt hiệu quả chiến đấu rất cao, đáp ứng yêu cầu tác chiến của bộ đội đặc công và lực lượng biệt động và được Nhà máy Z1 sản xuất loạt lớn. 

Có thể nói, trong giai đoạn 1961 -1965, Ban Kỹ thuật (Cục Quân giới) đã nỗ lực nghiên cứu được một số loại vũ khí mới, đáp ứng yêu cầu tác chiến trên chiến trường, góp phần đánh bại Mỹ - Ngụy, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Thượng tá, TS. LÊ QUÝ THI*

TS. NGUYỄN THỊ CHINH**

 

*Viện Lịch sử quân sự, Bộ Tổng Tham mưu.

**Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại