CNQP&KT - Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng (CNQP) là nội hàm quan trọng của hợp tác quốc tế về quốc phòng. Trong những năm qua, hoạt động này đã đạt nhiều kết quả quan trọng góp phần xây dựng tiềm lực CNQP thời kỳ mới.

CNQP là bộ phận quan trọng của công nghiệp quốc gia, thành phần cơ bản của thực lực và tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Một trong những giải pháp quan trọng trong xây dựng, phát triển CNQP được xác định trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 26/1/2022 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh phát triển CNQP đến năm 2030 và những năm tiếp theo" là đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Cùng với đó, Nghị quyết số 2662/NQ/QUTW ngày 26/2/2024 của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo xác định: Tích cực, chủ động, triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả công tác hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về CNQP, góp phần xây dựng nền CNQP chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực CNQP là nội hàm quan trọng của hợp tác quốc tế về quốc phòng. Trong những năm qua đã đạt nhiều kết quả quan trọng trong xây dựng tiềm lực CNQP thời kỳ mới.

Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế giúp hoàn thiện thể chế, chính sách về CNQP; đồng thời nghiên cứu xây dựng, sửa đổi, bổ sung những quy định phù hợp với thực tiễn phát triển. Việc nghiên cứu mô hình quản lý, luật pháp về CNQP các nước đem lại nhiều bài học giá trị trong xây dựng Luật CNQP, an ninh và động viên công nghiệp. Thực tế quá trình báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng Luật, đã nghiên cứu, tham khảo một số mô hình xây dựng CNQP trên thế giới để phân tích, định hướng lựa chọn mô hình quản lý nhà nước và tổ chức lực lượng CNQP Việt Nam với lộ trình và bước đi phù hợp, gắn với tổ chức lực lượng và phương thức tác chiến của Quân đội. Bên cạnh đó, để phát huy mọi tiềm lực, nguồn lực trong và ngoài nước, phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đầu tư nâng cao tiềm lực cho CNQP, đã đề xuất các cơ chế, chính sách cả trước mắt và lâu dài, trong đó tập trung vào các nội dung: Nguồn lực phát triển CNQP; mô hình tổ hợp CNQP; nghiên cứu phát triển vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) chiến lược, vũ khí công nghệ cao; thu hút, gìn giữ nguồn nhân lực có chất lượng, khuyến khích nhân tài cống hiến xây dựng và phát triển CNQP; huy động các thành phần kinh tế, doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính và khoa học - công nghệ (KHCN) tham gia đầu tư phát triển CNQP; triển khai các dự án đầu tư, nghiên cứu phát triển sản phẩm mũi nhọn; thu hút nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài, cơ sở ngoại giao của Việt Nam tham gia hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại sản phẩm CNQP.


Thủ trưởng Tổng cục CNQP làm việc với đối tác Ấn Độ.   Ảnh: BẢO MINH

Đối với lĩnh vực KHCN, mở rộng hợp tác quốc tế mang lại nhiều cơ hội phát triển cho CNQP, trong đó có nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu kỹ thuật, công nghệ của thế giới phục vụ sản xuất VKTBKT. Nhờ đó, các cơ sở CNQP có cơ hội tăng cường liên doanh, liên kết, tiếp cận nguồn nhân lực, chuyên gia chất lượng cao để mở rộng hoạt động nghiên cứu, đổi mới công nghệ sản xuất... Thực tế hiện nay, trình độ công nghệ sản xuất VKTBKT của Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn so với nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới. Chúng ta cần thu hẹp khoảng cách đó thông qua hợp tác chuyển giao công nghệ sản xuất các loại VKTBKT hiện đại. Do vậy, thực hiện "đi tắt, đón đầu" bằng cách tăng cường hợp tác quốc tế là rất cần thiết, nhằm tiếp thu kinh nghiệm, kiến thức để nâng cao trình độ CNQP của đất nước.

CNQP Việt Nam đã làm chủ công nghệ sản xuất súng bộ binh thế hệ mới (hợp tác với Israel); nâng cao năng lực sản xuất các loại khí tài quang học (hợp tác với Belarus); sản xuất các loại thuốc phóng, thuốc nổ (hợp tác với Pháp, Italia, Ba Lan, Slovakia, Trung Quốc); đạn pháo và ngòi đạn pháo các loại (hợp tác với Pháp).

     (Nguồn: Phòng Hợp tác quốc tế, Bộ Tham mưu)

Hơn nữa, hợp tác quốc tế tạo cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu sản phẩm do CNQP Việt Nam sản xuất, góp phần tạo nguồn thu để tái đầu tư, nâng cao trình độ, năng lực công nghệ; giúp các cơ sở CNQP cải tiến phương thức quản lý, hiện đại hóa các dây chuyền công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh tại thị trường quốc tế. Thông qua quá trình cạnh tranh, xuất khẩu, các doanh nghiệp CNQP xây dựng định hướng phát triển, sản phẩm xuất khẩu phù hợp và hiệu quả để dần nâng cao giá trị của doanh nghiệp, từ đó tạo hiệu ứng cộng hưởng để phát triển cả nền CNQP Việt Nam.

Thực tiễn những năm qua cho thấy, việc hợp tác quốc tế để triển khai các chương trình, dự án đầu tư sản xuất đã góp phần nâng cao chất lượng, trình độ, giá trị, phát huy khả năng làm chủ công nghệ của các cơ sở CNQP. Nhờ đó, CNQP Việt Nam chủ động hội nhập, mở rộng hợp tác trên nhiều lĩnh vực với các đối tác truyền thống và đối tác mới có độ tin cậy chính trị. Chúng ta đã làm chủ công nghệ sửa chữa, bảo dưỡng, tăng hạn nhiều loại vũ khí, khí tài phức tạp; tiếp cận và làm chủ công nghệ sản xuất các VKTBKT mới; một số sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới. Nổi bật là CNQP Việt Nam đã làm chủ công nghệ sản xuất súng bộ binh thế hệ mới (hợp tác với Israel); nâng cao năng lực sản xuất các loại khí tài quang học (hợp tác với Belarus); sản xuất các loại thuốc phóng, thuốc nổ (hợp tác với Pháp, Italia, Ba Lan, Slovakia, Trung Quốc); đạn pháo và ngòi đạn pháo các loại (hợp tác với Pháp). Trong lĩnh vực đóng tàu, ngoài việc đóng mới thành công tàu tên lửa và tàu pháo (hợp tác với các đối tác Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay), các đơn vị đóng tàu thuộc Tổng cục CNQP còn đóng thành công tàu tuần tra cao tốc, tàu tìm kiếm cứu nạn tàu ngầm đa năng, tàu quân y, tàu Cảnh sát biển đa năng, tàu tuần tra kết hợp tìm kiếm cứu nạn xa bờ, tàu vận tải đổ bộ, tàu chở quân (hợp tác với đối tác Hà Lan, Ấn Độ, Australia...).


Tổng công ty Sông Thu bàn giao tàu Tân Cảng 66 cho Tập đoàn DAMEN (Hà Lan). Ảnh: CTV

Thời gian tới, trước xu thế hội nhập quốc tế, nhiệm vụ đối với công tác hợp tác quốc tế về CNQP đặt ra nhiều thời cơ và thách thức. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục quán triệt, triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về phát triển CNQP, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, trọng tâm là Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 2662/NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương... Trên cơ sở đó, tập trung rà soát, đề xuất hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về CNQP; tham mưu đề xuất sắp xếp tổ chức lực lượng đảm bảo khoa học, hợp lý; thực hiện các dự án đầu tư công nghệ dây chuyền sản xuất, hiện đại hóa phòng thí nghiệm; thu hút, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực CNQP chất lượng cao; huy động kinh phí, tiềm lực KHCN cả trong và ngoài Quân đội... để tạo môi trường và động lực thúc đẩy nhiệm vụ nghiên cứu, chế tạo VKTBKT mới.

Theo đó, cần xác định đột phá trong xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho các cơ sở CNQP nòng cốt tham gia liên doanh, liên kết với tổ chức, cá nhân nước ngoài có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ CNQP; ưu tiên liên doanh, liên kết để sản xuất và phát triển các loại VKTBKT chiến lược, hợp tác trong nghiên cứu công nghệ nền, công nghệ lõi, công nghệ cao. Đồng thời, xác định ưu tiên nguồn lực từ hoạt động hợp tác quốc tế để xây dựng tiềm lực, phát triển năng lực các cơ sở CNQP là khâu then chốt.

Hai là, đẩy mạnh nghiên cứu xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện, cụ thể hóa các nội dung hợp tác quốc tế về nghiên cứu, chế tạo VKTBKT với đối tác dựa trên các mối quan hệ quốc phòng song phương, đa phương. Thí điểm một số mô hình, phương thức mới trong hợp tác CNQP với các đối tác chiến lược có nền CNQP phát triển. Chú trọng hợp tác cùng nghiên cứu phát triển và sản xuất với các đối tác có độ tin cậy chính trị cao; hợp tác tiêu thụ sản phẩm CNQP với các đối tác truyền thống, các nước ASEAN.

Xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý cho phép các cơ sở CNQP nòng cốt tham gia liên doanh, liên kết với tổ chức, cá nhân nước ngoài có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ CNQP; ưu tiên liên doanh, liên kết để sản xuất và phát triển các loại VKTBKT chiến lược.

Ba là, đẩy mạnh liên doanh, liên kết, tăng cường xúc tiến thương mại nhằm duy trì, mở rộng thị trường, tìm kiếm khách hàng, phát triển hợp tác với các đối tác mới, đối tác tiềm năng; đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm CNQP thông qua giải quyết các nút thắt về thủ tục, bước đầu xuất khẩu các thành phẩm, bán thành phẩm quốc phòng trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố pháp lý và đối tác; đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm kinh tế, như: thuốc nổ, phụ kiện nổ công nghiệp, pháo hoa, cao su, quạt điện, thiết bị điện dân dụng, hàng tiêu dùng, cơ khí, luyện kim, tàu kinh tế... để có nguồn lực tái đầu tư cho CNQP; huy động sự tham gia của các cơ quan ngoại giao của Việt Nam trong xúc tiến thương mại sản phẩm CNQP. Bên cạnh đó, đàm phán, thúc đẩy tham gia trưng bày sản phẩm CNQP tại các cuộc triển lãm quốc tế trên thế giới và tổ chức triển lãm quốc phòng quốc tế Việt Nam. Quy định chỉ nhập khẩu hàng hóa phục vụ quốc phòng - an ninh mà CNQP trong nước chưa sản xuất được; hàng hóa nhập khẩu phải có tiêu chuẩn chất lượng cao hơn sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước hoặc năng lực sản xuất của cơ sở CNQP trong nước không đáp ứng được nhu cầu về số lượng.

Bốn là, củng cố, kiện toàn tổ chức, biên chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. Có cơ chế thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ thích đáng đối với cán bộ CNQP trình độ cao; tạo cơ hội cho cán bộ làm công tác nghiên cứu KHCN được tham gia sâu vào các dự án hợp tác chuyển giao công nghệ để học hỏi kinh nghiệm, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn. Qua đó, giúp đội ngũ này thực sự trưởng thành, trở thành lực lượng mạnh, đóng vai trò sáng tạo, kiến tạo chiến lược hợp tác quốc tế trong lĩnh vực CNQP.

Với sự chủ động, tích cực tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp nhận và làm chủ công nghệ tiên tiến, hiện đại, tin tưởng rằng ngành CNQP Việt Nam sẽ đạt được nhiều thành tựu trong nghiên cứu, sản xuất VKTBKT tiên tiến, hiện đại, tạo bước phát triển vững chắc hơn nữa trong tương lai.

Thượng tá, TS. NGUYỄN ĐOÀN CƯỜNG

Trưởng phòng Hợp tác quốc tế, Bộ Tham mưu/Tổng cục Công nghiệp quốc phòng

Bình luận


Họ và tên:*

Đơn vị:     

Điện thoại:*               

Email:*                       

Nội dung: