CNQP&KT - Dự kiến, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, Dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp sẽ trình Quốc hội thảo luận lần thứ 2 và xem xét thông qua.

Trong “Gặp gỡ - Đối thoại” với Tạp chí Công nghiệp quốc phòng và Kinh tế kỳ này, đại biểu Quốc hội Trịnh Xuân An, Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, đề cập đến nhiều quy định mới trong dự thảo Luật, trong đó có các chính sách đặc thù, vượt trội để xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia.

THỂ CHẾ QUAN ĐIỂM, ĐƯỜNG LỐI, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG

Phóng viên (PV): Thưa ông, cử tri cả nước, đặc biệt là trong lực lượng vũ trang, đang rất quan tâm đến việc xây dựng và ban hành Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp (CNQP, AN và ĐVCN). Vậy ông có đánh giá gì về sự cần thiết để sớm ban hành Luật?

Ông Trịnh Xuân An: Tôi cho rằng, việc xây dựng Dự án Luật CNQP, AN và ĐVCN nhằm thể chế quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển CNQP, AN tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; tăng cường tiềm lực, tận dụng và phát triển liên kết CNQP, AN và công nghiệp dân sinh; ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp cơ bản tạo nền tảng cho CNQP, AN. Việc xây dựng Luật cũng chính là tạo hành lang pháp lý để CNQP có thể làm chủ được công nghệ tiên tiến, hiện đại; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đồng thời, xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, vai trò đặc biệt quan trọng của CNQP, AN và ĐVCN trong thực hiện các chiến lược về quân sự, quốc phòng, an ninh quốc gia; bảo đảm thống nhất, đồng bộ với các quy định pháp luật có liên quan.


Đại biểu Quốc hội Trịnh Xuân An.   Ảnh: PHƯƠNG ANH

PV: Vậy những yêu cầu đặt ra trong quá trình xây dựng dự án Luật này là gì, thưa ông?

Ông Trịnh Xuân An: Có thể nói, đây là dự án Luật rất đặc thù, rất khó, với 3 nội dung lớn là CNQP, CNAN và ĐVCN. Việc đầu tiên đòi hỏi là phải có sự phối hợp nhịp nhàng, tổng quan, cấu trúc chặt chẽ, logic và có sự kết nối để tạo thành tổng thể của dự án Luật. Cái khó khi xây dựng CNQP, AN, ĐVCN có liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhất là về ngân sách nhà nước, quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, đầu tư, khoa học - công nghệ (KHCN), hệ thống tổ chức CNQP, AN, chính sách đối với người lao động là chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư...

Đến thời điểm này, trên cơ sở ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, đại biểu Quốc hội, cùng với sự tích cực, chủ động của cơ quan soạn thảo (Bộ Quốc phòng chủ trì), cơ quan chủ trì thẩm tra (Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội), dự án Luật đã "lên hình hài" phù hợp, nhiều nội dung được tinh chỉnh. So với dự thảo trước đây do Chính phủ trình, hiện nay đã bổ sung mới 18 điều, bỏ 7 điều; nhiều mục được viết thêm như mục về xây dựng CNQP, AN lưỡng dụng; tổ hợp CNQP, dự trữ ngân sách cho ĐVCN… Với sự đầu tư rất thích đáng, đến nay, cơ bản dự án Luật đã bao quát được những vấn đề thực tiễn đặt ra.


Thượng tướng Trần Quang Phương, Phó Chủ tịch Quốc hội, dự và chỉ đạo Phiên họp của Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, thẩm tra dự án Luật CNQP, AN và ĐVCN (tháng 3/2024).   Ảnh: THANH TÙNG

PV: Thưa ông, trong dự thảo Luật, các chính sách nhằm xây dựng CNQP, AN chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại được thể hiện như thế nào?

Ông Trịnh Xuân An: Một vấn đề khó đặt ra khi xây dựng dự án Luật là phải thiết kế được những chính sách đặc thù, vượt trội, đặc cách để xây dựng CNQP, AN theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 26/1/2022 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo", cũng như các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đã đề ra. Các chính sách cần được thiết kế rõ ràng, đủ mạnh, vượt trội và thống nhất với hệ thống pháp luật thì mới bảo đảm tính khả thi. 

Hiện nay, các trụ cột của CNQP, AN tập trung ở 3 vấn đề, gồm: Nguồn lực về tài chính, con người chính sách về KHCN. Đây là những vấn đề lớn để xây dựng CNQP, AN chủ động, tự lực, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng. Trong bối cảnh thế giới diễn biến mau lẹ, phức tạp và khó lường như hiện nay, để sản xuất những sản phẩm vũ khí công nghệ cao, hiện đại, chúng ta phải có cơ chế huy động các doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển CNQP, AN một cách phù hợp, khả thi.

NHIỀU CHÍNH SÁCH MỚI, ĐẶC THÙ, VƯỢT TRỘI

PV: Vấn đề xây dựng nguồn lực cho phát triển CNQP, AN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và bảo đảm an ninh quốc gia trong dự thảo Luật được quy định như thế nào, thưa ông?

Ông Trịnh Xuân An: Liên quan đến nguồn lực về tài chính, đầu tư, điểm mới của dự thảo Luật là xây dựng riêng một mục về nguồn lực tài chính cho phát triển CNQP, AN, gồm: nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn của doanh nghiệp; nguồn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư, Quỹ CNQP, AN và các quỹ, nguồn vốn hợp pháp khác. Trong đó, một trong những quy định mới là xây dựng Quỹ CNQP, AN. Đây là quỹ được thành lập mới để huy động nguồn lực tài chính cho phát triển CNQP, AN; giúp chủ động, linh hoạt trong bố trí nguồn lực và chỉ sử dụng hỗ trợ triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách hoặc nghiên cứu, phát triển sản phẩm quốc phòng, an ninh có ý nghĩa chiến lược...

Trong dự thảo Luật cũng thiết kế nhiều cơ chế cho hoạt động đầu tư sản xuất, ưu tiên đặc biệt cho dự án, chương trình có tính cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược. Cơ chế về tài chính trong Luật không chỉ có ở mục về nguồn lực mà còn nằm rải rác trong các quy định về chế độ chính sách cho các cơ sở CNQP, AN nòng cốt. Dự thảo Luật đã hình thành cơ chế tài chính rất mạnh, góp phần tháo gỡ vướng mắc về nguồn lực tài chính, khắc phục việc nguồn lực có hạn nhưng lại đầu tư dàn trải, tản mạn. Ngoài ra, trong dự thảo Luật cũng có nhiều chính sách đặc thù, vượt trội khác để có những ưu tiên, hỗ trợ, nhất là với việc phát triển các sản phẩm có ý nghĩa chiến lược, đặc biệt, mới, mang tính rủi ro cao.

Luật CNQP, AN và ĐVCN tạo hành lang pháp lý vững chắc cho phát triển CNQP hiện đại, lưỡng dụng, thực sự trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia.

PV: Đối với vấn đề phát triển KHCN trong CNQP, AN, dự thảo Luật có những quy định gì để góp phần tạo đột phá, thưa ông?

Ông Trịnh Xuân An: Về vấn đề phát triển KHCN, dự thảo Luật có đề cập tới chính sách đối với hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo phục vụ CNQP, AN. Cụ thể, trong dự thảo có 3 nhóm chính sách: Chính sách cho cơ sở CNQP, AN; chính sách về công nghệ và chính sách về người lao động. Trong quá trình xây dựng đã tiến hành rà soát quy định của pháp luật, nhất là với các luật liên quan như Luật Công nghệ cao, Luật Chuyển giao công nghệ… Quy định mới trong dự thảo Luật hiện nay liên quan đến đầu tư, doanh nghiệp, hỗ trợ ưu đãi cho chuyển giao công nghệ, phát triển KHCN. Tựu chung lại, chính sách về KHCN đang bám rất sát với mục tiêu xây dựng CNQP, AN mang tính hiện đại, vượt qua các chính sách thông thường để đầu tư, ứng dụng được công nghệ mới, công nghệ nền, công nghệ lõi, hướng đến làm chủ được KHCN tiên tiến, hiện đại.

Ngoài ra, dự thảo Luật cũng có nội dung chính sách liên quan đến rủi ro trong hoạt động nghiên cứu KHCN. Các chế tài này nhằm tạo niềm tin, động lực cho các nhà khoa học có thể an tâm dám nghĩ, dám làm triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu VKTBKT chứa nhiều yếu tố rủi ro, nguy hiểm mà người nghiên cứu không lường trước được...


Các thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất ở Nhà máy Z129.   Ảnh: TUẤN MINH

PV: Thưa ông, trong dự thảo Luật có những giải pháp cụ thể nào để huy động hơn nữa nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, cho CNQP, AN?

Ông Trịnh Xuân An: Cùng với mục về chính sách cho người lao động, dự thảo Luật cũng đặc biệt quan tâm đến yếu tố mang tính quyết định đối với lĩnh vực CNQP, AN là con người; bổ sung nhiều chính sách đối với người lao động tại cơ sở CNQP, AN nòng cốt. Trong đó, có chính sách ưu tiên vượt trội cho các chuyên gia, nhà khoa học, tổng công trình sư… để họ yên tâm, tập trung vào nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới, hiệu quả. Kể cả bảo đảm an ninh, an toàn cho tổng công trình sư và thân nhân của họ để thực hiện nhiệm vụ.

Một nội dung liên quan là vấn đề an sinh cho người lao động trong các cơ sở CNQP, AN nòng cốt. Dự thảo Luật có quy định vượt trội để tận dụng nguồn lực trí tuệ, có chính sách phù hợp để khuyến khích, động viên người lao động, giữ được người tài, như hỗ trợ về nhà ở, cơ chế trả lương, tiền lương, quân hàm, có dẫn chiếu sang luật khác, khẳng định sự quan tâm đến yếu tố trụ cột về con người.

PHÁT TRIỂN CNQP, AN TRỞ THÀNH MŨI NHỌN CỦA CÔNG NGHIỆP QUỐC GIA

PV: Trong dự thảo Luật có quy định về tổ hợp CNQP, vậy ông đánh giá ra sao về sự cần thiết cũng như các điều kiện hiện có của nước ta để phát triển tổ hợp CNQP?

Ông Trịnh Xuân An: Tổ hợp CNQP là một nội dung mới trong dự thảo Luật. Việc xây dựng tổ hợp CNQP đã được đặt ra tại Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị và phù hợp với xu hướng chung của các nước phát triển. Thiết kế mô hình tổ hợp CNQP trong dự thảo Luật là hình thức liên kết, lấy một cơ sở CNQP nòng cốt làm hạt nhân, định hướng phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị, hướng đến sản xuất chuyên ngành. Về nguyên tắc, nội dung này do Chính phủ quy định cụ thể. Theo tôi, quy định về tổ hợp CNQP rất quan trọng, nếu không được xây dựng trong Luật, trong quá trình triển khai thực tiễn sẽ rất khó cho việc xác định cơ chế liên kết. Trong xây dựng tổ hợp CNQP, hạt nhân phải là doanh nghiệp tầm cỡ, cơ sở CNQP nòng cốt. Dự thảo Luật cũng nêu các điều kiện để các doanh nghiệp tham gia, chính sách hỗ trợ của Nhà nước…

PV: Vấn đề về hệ thống tổ chức cơ sở CNQP, AN được quy định như thế nào trong dự thảo Luật, thưa ông?

Ông Trịnh Xuân An: Trong dự thảo Luật có quy định về hệ thống tổ chức cơ sở CNQP, AN; trong đó có cơ sở CNQP, CNAN nòng cốt, cơ sở huy động và cơ sở công nghiệp động viên, gắn với đó là các chính sách cụ thể của từng loại hình. Trong cơ sở nòng cốt có 2 loại là doanh nghiệp và các đơn vị sự nghiệp công lập. Dự thảo Luật gắn với đặc thù của từng loại hình để thiết kế chính sách cho phù hợp. Ví dụ, khi nói về chính sách thì bóc tách cụ thể chính sách nào với doanh nghiệp, chính sách nào với đơn vị sư nghiệp công lập, từ đó có chính sách hỗ trợ cho các cơ sở CNQP, AN phát triển.

Ngoài ra, dự thảo Luật còn có quy định về Ban chỉ đạo Nhà nước về CNQP, AN. Theo đó, Ban chỉ đạo là tổ chức phối hợp liên ngành tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong tổ chức, chỉ đạo, điều hành về triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển CNQP, AN. Việc quy định Ban chỉ đạo là cần thiết do đây là lĩnh vực đặc thù, cần có sự tham gia liên ngành của nhiều cơ quan, tổ chức; sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để phát huy được vai trò liên kết, tính tổng thể trong nền kinh tế nhằm xây dựng CNQP, AN là mũi nhọn của công nghiệp quốc gia.

"Phát triển CNQP, AN lưỡng dụng là chiến lược rất quan trọng, đi theo xu hướng chung của thế giới. CNQP, AN không phải chỉ do lực lượng Quân đội, Công an xây dựng mà cần có sự kết hợp, huy động từ khu vực dân sự, như vậy mới phát huy được vai trò dẫn dắt của CNQP, AN".

(Ông Trịnh Xuân An)

PV: Việc phát triển CNQP, AN lưỡng dụng được quy định như thế nào trong dự thảo Luật, thưa ông?

Ông Trịnh Xuân An: Phát triển CNQP, AN lưỡng dụng là chiến lược rất quan trọng, đi theo xu hướng chung của thế giới. CNQP, AN không phải chỉ do lực lượng Quân đội, Công an xây dựng mà cần có sự kết hợp, huy động từ khu vực dân sự, như vậy mới phát huy được vai trò dẫn dắt của CNQP, AN. Dự thảo Luật có mục riêng về CNQP, AN lưỡng dụng, đưa ra tiêu chí để huy động doanh nghiệp dân sinh, nhất là doanh nghiệp có nền tảng, có quy mô, điều kiện cơ sở vật chất tốt tham gia. Mục về CNQP, AN lưỡng dụng quy định rất cụ thể về tiêu chí, điều kiện để doanh nghiệp được huy động tham gia, khi tham gia được hưởng chính sách như thế nào. Nhà nước hỗ trợ thông qua cơ chế đặt hàng, đấu thầu, giao nhiệm vụ với những quy định rất minh bạch, rõ ràng. Từ đó, xây dựng khung pháp lý chặt chẽ để vừa khả thi nhưng cũng tránh bị lạm dụng.

PV: Việc đổi mới, mở rộng đối tượng tham gia ĐVCN, nhất là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có nền tảng khoa học, kỹ thuật được quy định như thế nào, thưa ông?

Ông Trịnh Xuân An: Đối với ĐVCN, điểm mới trong dự thảo Luật là không mang tính hành chính, hình thức mà có sự phân cấp phân quyền; trong đó có các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh. Bên cạnh đó, ĐVCN không chỉ hạn hẹp trong việc lựa chọn một số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất mà động viên có tính chất liên kết, một chuỗi quá trình từ thời bình đến thời chiến, nhất là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có nền tảng khoa học, kỹ thuật. Mục đích của ĐVCN là phải quản lý được các cơ sở công nghiệp theo cách thức hiện đại hơn. Bộ Quốc phòng được giao xây dựng cơ sở dữ liệu về đăng ký, quản lý doanh nghiệp đủ điều kiện ĐVCN, để khi có yêu cầu có thể động viên được ngay một cách hiệu quả. Dự thảo Luật cũng quy định cụ thể hơn các chính sách để khuyến khích doanh nghiệp tham gia ĐVCN, nhất là tạo cơ chế, chính sách cho những doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn đóng vai trò chủ đạo, xây dựng mạng lưới cơ sở công nghiệp động viên rộng khắp, đa dạng về sản phẩm, gắn kết chặt chẽ với hệ thống cơ sở CNQP nòng cốt. Đồng thời đẩy mạnh cải cách hành chính trong ĐVCN.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

MẠNH HƯNG – THANH TÙNG (Thực hiện)

Bình luận


Họ và tên:*

Đơn vị:     

Điện thoại:*               

Email:*                       

Nội dung: