CNQP&KT - Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh chức năng chủ yếu là “đội quân chiến đấu” bảo vệ Tổ quốc, còn có hai chức năng khác là “đội quân công tác” và “đội quân lao động sản xuất”. Trong đó, lao động sản xuất, phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng, nhất là trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0.

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG

Ngay từ khi lập quốc, ông cha ta không chỉ phải đối phó với thiên tai mà còn phải thường xuyên chống giặc ngoại xâm. Sau hơn 10 thế kỷ với 6 lần chống giặc ngoại xâm, thời Lý đã cho ra đời chính sách “Ngụ binh ư nông”, được xem là nhận thức đầu tiên của dân tộc ta về tính quy luật kết hợp kinh tế với quốc phòng. Đến nay, Đảng ta vẫn khẳng định cần phải “kết hợp xây dựng phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước”.

Ngay sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, ngày 23/8/1956, Bộ Quốc phòng đã thành lập Cục Nông binh và chuyển 8 vạn quân sang làm nhiệm vụ sản xuất, xây dựng 29 nông trường trên các địa bàn Mộc Châu, Điện Biên, Đông Hiếu… và xây dựng các nhà máy tại khu công nghiệp Thái Nguyên, Việt Trì. Sau ngày 30/4/1975, Bộ Quốc phòng điều gần 28 vạn quân sang tham gia xây dựng kinh tế và Nhà nước cho phép thành lập Tổng cục Xây dựng kinh tế để chỉ đạo “đội quân lao động sản xuất”.

Thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Tăng gia sản xuất cùng toàn dân để tiến lên chủ nghĩa xã hội”, trong quá trình đổi mới, nhất là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, “đội quân lao động sản xuất” lại làm nòng cốt trong việc xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng (KT-QP) trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo nhằm vừa phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) vừa tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng - an ninh (QP-AN), bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Đến nay, Quân đội ta đã xây dựng được 28 khu KT-QP trên những địa bàn chiến lược quan trọng.

PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG HIỆU QUẢ

Qua tổng kết thực tiễn, đến nay, “đội quân lao động sản xuất” hoạt động trên 3 loại hình chủ yếu: doanh nghiệp, các đoàn KT-QP và các đơn vị tăng gia sản xuất, cải thiện, nâng cao đời sống bộ đội.

“Đội quân lao động sản xuất” được tổ chức theo mô hình doanh nghiệp đã tích cực đóng góp vào các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, tạo dựng uy tín trên thương trường, vươn ra thị trường khu vực và thế giới. Tiêu biểu như: Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel), Tổng công ty Trực thăng Việt Nam, Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn, Tổng công ty GAET…  Trong đó, Tập đoàn Viettel đã vươn lên trở thành nhà cung cấp dịch vụ viễn thông có tốc độ phát triển nhanh nhất, mở rộng hoạt động sang các thị trường khu vực và thế giới. Năm 2018, tổng doanh thu của Tập đoàn đạt hơn 234 nghìn tỷ đồng, chiếm 60% tổng doanh thu toàn ngành viễn thông; tổng lợi nhuận hợp nhất đạt 37,6 nghìn tỷ đồng, chiếm hơn 70% lợi nhuận toàn ngành, nộp ngân sách nhà nước 37 nghìn tỷ đồng, chiếm hơn 70% số tiền nộp ngân sách toàn ngành. Năm 2019, Viettel đặt mục tiêu tăng trưởng doanh thu 7,3%; lợi nhuận tăng 4,6% so với năm 2018, dự kiến nộp ngân sách 38,1 nghìn tỷ đồng. Một doanh nghiệp nổi bật khác là Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn. Sau hơn 30 năm hoạt động, Tổng công ty đã tiếp nhận trên 76.000 lượt tàu kinh tế, tổng sản lượng hàng qua hệ thống cảng đạt gần 900 triệu tấn, tăng trưởng bình quân trên 20%/năm; tổng doanh thu trên 160.000 tỷ đồng, tổng lợi nhuận trên 23.000 tỷ đồng, tổng nộp ngân sách trên 9.000 tỷ đồng...

Cảng Tân Cảng - Cát Lái (Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn) luôn tấp nập ngày, đêm. Ảnh: CTV

Trong quá trình đổi mới cơ cấu doanh nghiệp, Bộ Quốc phòng đã và đang từng bước cổ phần hóa các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, chỉ duy trì những doanh nghiệp đóng vai trò nòng cốt, có liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ QP, AN. Thực hiện Quyết định số 135/QĐ-TTg ngày 31/7/1998, Bộ Quốc phòng đã triển khai xây dựng các khu KT-QP nhằm đỡ đầu, đón nhận hàng trăm nghìn hộ dân đến lập nghiệp ở những vùng đất còn hoang hóa, biên giới, biển, đảo. Sau hơn 20 năm triển khai xây dựng, các khu KT-QP đã góp phần tạo nên diện mạo mới về KT-XH, tạo thế trận bền vững về QP-AN trên các địa bàn chiến lược dọc biên giới. Tại các khu KT-QP tổ chức sản xuất tập trung như Binh đoàn 15, Binh đoàn 16 đã khai hoang trồng được hàng chục nghìn héc-ta cao su, cà phê, điều cao sản… vừa góp phần tạo ra nguồn thu đáng kể cho ngân sách, vừa tạo điều kiện bố trí việc làm, tăng thu nhập cho người dân trên địa bàn. Các chương trình xóa đói giảm nghèo, khuyến nông, khuyến lâm đã làm thay đổi tập quán canh tác, sinh hoạt của nhân dân, đặc biệt là người dân tộc thiểu số. Có thể khẳng định, mô hình khu KT-QP do Quân đội triển khai trong thời gian qua đã hoạt động hiệu quả, được các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương đánh giá cao. Các đoàn KT-QP đã thực sự là chỗ dựa vững chắc cho chính quyền địa phương nơi đóng quân, trở thành nhân tố không thể thiếu trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, phát triển KT-XH của đất nước.

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả lao động sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội, góp phần vào thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, đồng thời tham gia có hiệu quả vào công cuộc xây dựng, phát triển KT-XH, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, theo chúng tôi, thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và khẳng định vai trò của “đội quân lao động sản xuất”. Theo đó, cần sớm đưa các nội dung cấp thiết về thời đại Cách mạng 4.0 vào chương trình bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho các đối tượng, nhất là các lực lượng thuộc “đội quân lao động sản xuất”, các đơn vị mũi nhọn trong lĩnh vực công nghệ cao.

Hai là, đẩy mạnh quá trình tiếp cận và ứng dụng thành tựu Cách mạng 4.0. Để làm tốt nhiệm vụ “đội quân lao động sản xuất” trong thời kỳ mới, tùy theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mỗi loại hình doanh nghiệp mà nắm bắt các đặc trưng, xu hướng chủ đạo và sản phẩm định hình tương lai của thế giới, đặc biệt là 4 công nghệ đột phá: phương tiện tự lái, in 3D, robot cao cấp, vật liệu mới. Việc Tập đoàn Viettel thực hiện chuẩn hóa hệ thống quy trình quốc tế, làm chủ công nghệ lõi và bước đầu đưa các sản phẩm ra thị trường thế giới, với năng lực làm chủ các khâu như nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và bảo mật tuyệt đối... cần tiếp tục được phát huy.

Ba là, ưu tiên đầu tư cho các doanh nghiệp công nghệ cao. Việc thành lập Tổng công ty Công nghiệp công nghệ cao Viettel (VHT) đã phản ánh tư duy chiến lược mới của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta về vị thế, vai trò của “đội quân lao động sản xuất” trong thời đại Cách mạng 4.0. Theo đó, thành công trong chế tạo 78 sản phẩm, làm chủ 68 công nghệ lõi với 111 sáng chế... đã tạo tiền đề để Tập đoàn Viettel chuyển sang giai đoạn tập trung vào 3 mũi nhọn (CNQP, công nghệ điện tử viễn thông, công nghệ mạng) và đi đầu trong tiến trình “Make in Vietnam”, đưa các sản phẩm lưỡng dụng ra thị trường quốc tế.

Bốn là, đẩy mạnh kết hợp QP-AN trong thu hút nguồn lực cho kinh tế biển. Để khai thác, sử dụng hiệu quả và biến tiềm năng kinh tế biển thành nguồn lực cho đất nước, cần ưu tiên xây dựng các trung tâm dịch vụ, thành lập các tập đoàn kinh tế mạnh với vai trò nòng cốt của các đoàn KT-QP, nhằm kết hợp phát triển kinh tế với thực thi chủ quyền biển, đảo; tập trung nguồn vốn, khoa học, công nghệ, lao động để khai thác hiệu quả tiềm năng biển; ưu tiên phát triển hạ tầng cơ sở KT-XH gắn với QP-AN trên khu vực quần đảo Trường Sa và các đảo lớn xa bờ, tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển, đảo.

Năm là, dân sự hóa các hoạt động QP-KT trên biển. Nhà nước sớm cho phép triển khai “thí điểm xây dựng các khu QP-KT tại các đảo, quần đảo Trường Sa, vùng biển, đảo của Tổ quốc” như đã được khẳng định trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Đây là một chủ trương có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Theo đó, “đội quân lao động sản xuất” có vai trò nòng cốt trong quá trình thực hiện, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển đi đôi với bảo đảm QP-AN, bảo vệ vững chắc chủ quyền trên biển của Việt Nam. Việc xây dựng các cơ sở hậu cần - kỹ thuật, KT-XH ven bờ, trên biển và trên các đảo phải sẵn sàng cho nhiệm vụ QP-AN, ưu tiên xây dựng các đảo tiền tiêu xa bờ có công sự kiên cố, trang bị hỏa lực mạnh, có khả năng tác chiến và đấu tranh QP-AN dài ngày.

Sáu là, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Vấn đề “Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh” đã được quy định trong Điều 68, Chương IV về Bảo vệ Tổ quốc (Hiến pháp năm 2013). Vì thế, phát triển kinh tế biển kết hợp với tăng cường QP-AN trên biển phải phù hợp với hiến pháp theo tư duy mới về biển và đại dương; việc cụ thể hóa các nội dung chiến lược bằng quy hoạch, kế hoạch, các dự án đã được triển khai trước đây, nay cần được rà soát lại để điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu mới, nhất là việc luật hóa bằng các văn bản cụ thể.

Phát huy những kết quả đã đạt được cùng với thực hiện các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động, thời gian tới, “đội quân lao động sản xuất” sẽ tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong kết hợp QP-AN với KT, nhất là vùng biên giới, biển, đảo, trên không gian mạng, nhằm tiếp tục xây dựng và tăng cường tiềm lực, thế trận QP-AN sẵn sàng đối phó hiệu quả với các tình huống đấu tranh QP-AN bảo vệ Tổ quốc.

Đại tá NGUYỄN NHÂM

Nguyên cán bộ Viện Chiến lược Quốc phòng

________________

Tài liệu tham khảo

1. Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, NXB Sự thật, Hà nội (1960).

2. Luật Quốc phòng Việt Nam (năm 2018), khoản 3, Điều 32.

3. https://www.qdnd.vn, bài viết: Đội quân chiến đấu, công tác và sản xuất.

4. http://tapchiqptd.vn, bài viết: Quan điểm của Đảng về kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN trên các địa bàn chiến lược.

5. http://www.tapchigiaothong.vn, bài viết: Quân đội làm kinh tế trong tình hình mới.

Bình luận


Họ và tên:*

Đơn vị:     

Điện thoại:*               

Email:*                       

Nội dung: