Thấy gì qua 12 năm thực hiện Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng tại một số địa phương, đơn vị?07/12/2020CNQP&KT - Triển khai thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, một số cơ quan, đơn vị, địa phương trong cả nước đã tiến hành tổng kết 12 năm thực hiện Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng (CNQP). Vậy kết quả thực hiện Pháp lệnh này ra sao? SỰ CẦN THIẾT TỔNG KẾT PHÁP LỆNH CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG Pháp lệnh CNQP được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XII thông qua ngày 26/1/2008; được sửa đổi, bổ sung tại Pháp lệnh số 01/2018/UBTVQH14 ngày 22/12/2018 và hiện nay là Pháp lệnh CNQP được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành tại Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-VPQH ngày 4/1/2019. Qua 12 năm triển khai thực hiện Pháp lệnh CNQP (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh), về cơ bản, CNQP nước ta đã đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, từng bước hoàn thiện về tổ chức hoạt động CNQP từ cơ quan quản lý nhà nước đến các cơ sở CNQP nòng cốt và động viên; tổ chức lực lượng CNQP được củng cố theo hướng tập trung, chuyên môn hóa, gắn nghiên cứu thiết kế với sản xuất, sản xuất với sửa chữa; năng lực của CNQP đã được phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đáp ứng được một phần quan trọng về nhu cầu trang bị mới và sửa chữa, bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) cho Quân đội, góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng, an ninh quốc gia; CNQP được xây dựng và phát triển, từng bước trở thành một bộ phận quan trọng của công nghiệp quốc gia, đóng góp cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên, Pháp lệnh cũng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, như: Nhiều quan điểm, chủ trương mới của Đảng về xây dựng và phát triển CNQP chưa được thể chế hóa đầy đủ trong Pháp lệnh. Tiềm lực CNQP trong sản xuất VKTBKT góp phần xây dựng Quân đội tiến lên hiện đại còn hạn chế; số lượng cơ sở CNQP nòng cốt tuy nhiều nhưng chưa bố trí phù hợp tại các vùng miền, mức độ quy tụ còn mỏng; chưa thu hút được các tập đoàn lớn và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động CNQP; các cơ sở công nghiệp động viên còn ít; chưa đánh giá hết tiềm năng từng vùng, từng địa phương phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển CNQP nhằm góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, một số quy định tại Pháp lệnh có những điểm chưa phù hợp và thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Do đó, vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 32/CT-TTg về việc Tổng kết 12 năm thực hiện Pháp lệnh CNQP (2008-2020) trong phạm vi toàn quốc. Chỉ thị nêu rõ: UBND tỉnh, thành phố thực hiện tổng kết Pháp lệnh có tổ chức hội nghị tổng kết gồm 4 đầu mối: Hà Nội, Thái Nguyên, Đà Nẵng, Đồng Nai. Quân đội tổng kết Pháp lệnh ở 32 cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan chỉ đạo tổng kết Pháp lệnh; xây dựng kế hoạch hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra thực hiện Chỉ thị; tổ chức tổng kết đạt hiệu quả, thiết thực, tiết kiệm; tổng hợp các kiến nghị, đề xuất và giải pháp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Quang cảnh Hội nghị tổng kết 12 năm thực hiện Pháp lệnh của UBND TP. Hà Nội. Ảnh: MAI PHƯƠNG CÁC ĐỊA PHƯƠNG, ĐƠN VỊ TỔNG KẾT PHÁP LỆNH Triển khai thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, các địa phương, cơ quan, đơn vị trong cả nước đã tiến hành tổng kết 12 năm thực hiện Pháp lệnh CNQP. Là một trong 4 đầu mối tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức hội nghị tổng kết 12 năm thực hiện Pháp lệnh trong cả nước, hội nghị tại TP. Hà Nội đã thống nhất đánh giá: Pháp lệnh ra đời tạo hành lang pháp lý để sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp của TP. Hà Nội; là cơ sở để Thành ủy, UBND thành phố tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn. Theo đồng chí Lê Hồng Sơn, Phó Chủ tịch UBND thành phố, Hà Nội thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là các doanh nghiệp công nghiệp về Pháp lệnh, từ đó nâng cao hiệu quả việc huy động các doanh nghiệp này tham gia phục vụ quốc phòng theo chủ trương, đường lối tự lực, tự cường, góp phần chủ động nguồn lực đảm bảo sản xuất, sửa chữa VKTBKT cho Quân đội, bảo đảm quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân theo phương án tác chiến khu vực phòng thủ. Tuy nhiên, việc thực hiện Pháp lệnh trên địa bàn thủ đô vẫn còn những tồn tại cần phải có giải pháp tháo gỡ, như: Công tác đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, sửa chữa VKTBKT chưa được chú trọng; ngân sách còn hạn hẹp nên các dây chuyền động viên công nghiệp ít được vận hành. Các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh còn chưa đầy đủ, rõ ràng, dẫn đến quá trình triển khai thực hiện còn lúng túng trong thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia vào chuỗi cung ứng cho CNQP. Việc huy động và duy trì nguồn nhân lực có trình độ cao để phục vụ trong các dây chuyền CNQP còn gặp khó khăn, trở ngại.
Tại Thái Nguyên, phân cấp về tổ chức hoạt động CNQP từ cấp tỉnh đến cấp huyện và các cơ sở CNQP đã cơ bản hoàn thiện. UBND tỉnh có các chủ trương, biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý về CNQP; kịp thời xây dựng các chính sách ưu đãi nhằm thu hút các dự án đầu tư và nguồn nhân lực chất lượng cao vào lĩnh vực sản xuất CNQP. Cơ quan quân sự địa phương phối hợp với các sở, ban, ngành làm tốt công tác khảo sát, lựa chọn, đăng ký, quản lý các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn có đủ điều kiện, năng lực sản xuất, sửa chữa VKTBKT đảm bảo cho Quân đội. Tuy nhiên, theo đánh giá, Thái Nguyên chưa khai thác được thế mạnh, tiềm năng công nghiệp; công tác đăng ký, quản lý các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp đã ngừng sản xuất, giải thể hoặc phá sản. Các dây chuyền sản xuất phục vụ nhiệm vụ CNQP chưa có khả năng sản xuất, sửa chữa VKTBKT lớn và hiện đại… Trong thời gian tới, để thực hiện tốt Pháp lệnh, theo đồng chí Lê Quang Tiến, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, cần tiếp tục phát huy thế mạnh, tiềm lực các khu công nghiệp; xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp mở rộng sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh; phát huy vai trò của Đại học Thái Nguyên trong công tác nghiên cứu khoa học ứng dụng vào CNQP; thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với các doanh nghiệp, người lao động tham gia thực hiện nhiệm vụ CNQP theo quy định. Đối với các cơ quan, đơn vị Quân đội, việc tổng kết Pháp lệnh được triển khai ở 32 đầu mối trực thuộc Bộ Quốc phòng. Tại Quân chủng Hải quân, Chuẩn Đô đốc Hoàng Hồng Hà, Phó Tư lệnh Hải quân, cho biết: Những năm qua, hệ thống cơ sở CNQP của Quân chủng Hải quân từng bước được đầu tư, xây dựng và đã có nhiều sản phẩm CNQP đạt chất lượng cao, góp phần quan trọng nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và xây dựng Quân chủng Hải quân tiến thẳng lên hiện đại. Hoạt động nghiên cứu sản xuất, chế tạo, chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế, liên doanh, liên kết được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tốt. Còn tại Quân chủng Phòng không - Không quân, Thiếu tướng Vũ Văn Kha, quyền Tư lệnh Quân chủng khẳng định: Quân chủng đã phát huy mọi nguồn lực để phát triển CNQP. Các cơ sở CNQP của Quân chủng đã từng bước được đầu tư, xây dựng, mua sắm trang - thiết bị, nâng cao năng lực nghiên cứu chế tạo, sửa chữa, bảo đảm kỹ thuật cho Quân chủng; công tác chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế, liên doanh, liên kết được đẩy mạnh, góp phần nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và xây dựng Quân chủng tiến thẳng lên hiện đại. Bên cạnh đó, các cơ sở CNQP thuộc Quân chủng đã tận dụng năng lực dôi dư của trang - thiết bị, dây chuyền công nghệ tham gia sản xuất sản phẩm kinh tế, bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động. Ở địa bàn Quân khu 7, từ năm 2008 đến nay, Quân khu đã khảo sát trên 660 cơ sở doanh nghiệp công nghiệp, trong đó có gần 300 doanh nghiệp đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp. Công tác huấn luyện chuyên môn cho người lao động trong các dây chuyền động viên công nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực. Các doanh nghiệp luôn thực hiện tốt chỉ tiêu, nhiệm vụ động viên công nghiệp được giao. Được xác định là một trong những cơ sở CNQP nòng cốt, cung cấp nguồn nhân lực thực hiện nhiệm vụ CNQP và nghiên cứu, thiết kế, cải tiến, hiện đại hóa VKTBKT, Học viện Kỹ thuật quân sự (KTQS) đã triển khai thực hiện tốt Pháp lệnh trên tất cả các mặt, đặc biệt là trong công tác đào tạo nguồn nhân lực cho CNQP. Trung tướng Nguyễn Công Định, Giám đốc Học viện khẳng định: 12 năm qua, đã có hàng trăm cán bộ tốt nghiệp cấp phân đội thuộc các chuyên ngành vũ khí, đạn; công nghệ thiết kế, chế tạo vũ khí; đạn; thuốc phóng, thuốc nổ; khí tài quang; công nghệ vật liệu, chế tạo máy... được điều động về công tác tại Tổng cục CNQP và hàng nghìn cán bộ được điều động về các trạm, xưởng, xí nghiệp, trung tâm nghiên cứu... trong toàn quân. Học viện cũng đã đào tạo hàng trăm cán bộ trình độ thạc sĩ và tiến sĩ cho Tổng cục CNQP. Bên cạnh đó, Học viện cũng đã chủ trì triển khai 98 nhiệm vụ khoa học - công nghệ (KHCN) cấp Quốc gia, 105 nhiệm vụ KHCN cấp Bộ và tương đương, trong đó có hàng trăm nhiệm vụ phục vụ trực tiếp cho công tác nghiên cứu thiết kế, sản xuất, sửa chữa VKTBKT phục vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang và nâng cao năng lực sản xuất của các cơ sở CNQP. Học viện KTQS mong muốn được mở lại loại hình đào tạo kỹ sư thiết kế chế tạo các chuyên ngành đạn, vũ khí, ra-đa, thông tin, tên lửa và các lớp bồi dưỡng kiến thức để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển ngành CNQP. Trong thời gian tới, trên cơ sở báo cáo tổng kết 12 năm thực hiện Pháp lệnh của khối các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp ngoài Quân đội (gồm 16 tỉnh, thành phố; 6 bộ; 4 tập đoàn, tổng công ty) và 32 cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, trên cơ sở đó Bộ Quốc phòng sẽ tổ chức hội nghị tổng kết Pháp lệnh; đồng thời, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước xây dựng dự án Luật CNQP để đồng bộ hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng, phát triển CNQP với hệ thống pháp luật hiện hành, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho phát triển CNQP, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. PHƯƠNG ANH |