CNQP&KT - Là người làm công tác nghiên cứu lịch sử, tôi có dịp gặp gỡ nhiều nhân chứng lịch sử đặc biệt và họ đã để lại những ấn tượng không thể nào quên. Giám đốc Binh công xưởng Nguyễn Công Lý, người có học vị Tiến sĩ Thần học, được phong là Giám mục, từng làm việc tại Tòa thánh Va-ti-căng, là một trong những người đặc biệt như thế… Mới nghe, thật khó có thể tin một Giám mục từng làm việc ở Tòa thánh Va-ti-căng lại có thể làm Giám đốc một binh công xưởng Quân giới. Thế nhưng, đó lại là sự thật. Cơ duyên để tôi biết đến bác Nguyễn Công Lý rất tình cờ. Cuối năm 1987, khi đọc mấy số đầu tiên của Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử Hải Phòng, tôi chú ý đến bài viết của bác Đỗ Chí Thành (Trưởng ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng của thành phố) - một cán bộ dân vận kỳ cựu của Khu ủy Liên khu 3 và Thành ủy Hải Phòng viết về một vị Giám mục tham gia cách mạng từ tháng 6/1945, Giám đốc Binh công xưởng đầu tiên của Chiến khu Trần Hưng Đạo (sau là Chiến khu 3). Đây là điều tôi không thể nào tưởng tượng nổi. Ngay sau đó tôi đến gặp bác Đỗ Chí Thành, được bác kể lại: “Cuối năm 1945, lần đầu tiên tôi gặp và làm việc với anh Nguyễn Công Lý là ở Binh công xưởng của Chiến khu 3. Lần thứ hai tôi gặp lại anh ở Cẩm Thủy (Thanh Hóa) nhờ tiếng đàn piano anh chơi trong đêm khuya ở vùng núi rừng hoang vắng. Từ đó mất tin, không biết số phận của anh ấy ra sao?”. Thấy tôi tỏ vẻ chưa thỏa mãn nhu cầu biết rõ hơn thông tin, bác Thành khuyên tôi đến gặp Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh đầu tiên của Chiến khu 3 - một vị dũng tướng, một nhân cách lớn mà toàn quân, toàn dân đều yêu mến, kính trọng. Bác Đỗ Chí Thành còn nói thêm: “Theo mình biết thì chính Tư lệnh Chiến khu 3 Hoàng Minh Thảo là người giới thiệu Nguyễn Công Lý vào Đảng…”. Thật may mắn, nhân một chuyến “tháp tùng” Thượng tướng Hoàng Minh Thảo xuống thăm lại Sở Chỉ huy tiền phương của Chiến khu 3 trong 7 ngày đầu kháng chiến ở Hải Phòng (nay là trụ sở Ban chỉ huy Quân sự quận Lê Chân), tôi mạnh dạn hỏi Thượng tướng về Nguyễn Công Lý. Nghe tôi đặt vấn đề, mắt Thượng tướng như sáng thêm lên. Ông hồ hởi nói ngay: “Nguyễn Công Lý đúng là một nhân vật lịch sử rất đặc biệt, có thể nói là chưa từng có của Quân đội ta. Với cương vị là Tư lệnh Chiến khu 3, mình đúng là người giới thiệu đồng chí Nguyễn Công Lý vào Đảng. Hai anh em thi thoảng vẫn gặp nhau”. Tuy vậy, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo cũng khuyên tôi, để biết rõ hơn về nhân vật lịch sử này, phải tìm hiểu thêm về Chiến khu Trần Hưng Đạo qua các cán bộ tiền khởi nghĩa, như: Trần Đức Thịnh1, Hoàng Ngọc Lương, Nguyễn Kiên Tranh2, Bùi Sinh3, Nguyễn An4, Lê Hai5, Nguyễn Hữu Sở6... ![]() Công nhân Xưởng 42 sản xuất đạn cối 60 mm ở Việt Bắc (năm 1950). Ảnh: TL Được Thượng tướng Hoàng Minh Thảo tận tình chỉ dẫn, tôi cùng Đại tá Phạm Văn Khải (Cục trưởng) và các anh Trần Đỗ Thành, Vũ Ngọc Linh (Ban Lịch sử Tổng kết) Cục Kỹ thuật Quân khu 3 đã nhiều lần làm việc với Thượng tướng và các nhân chứng lịch sử kể trên. Chúng tôi còn được Thượng tướng đích thân dẫn đến nhà riêng thăm và làm việc với bác Nguyễn Công Lý tại nơi đặt trụ sở báo Người Công giáo yêu nước ở phố Tràng Thi (Hà Nội). Nhờ đó, chúng tôi đã “phục dựng” được những nét chính về nhân vật lịch sử đặc biệt này. Chuyện rằng, sau khi Chiến khu Trần Hưng Đạo được thành lập (16/7/1945), Trung tướng Nguyễn Bình7 cùng các cán bộ lãnh đạo của Chiến khu rất quan tâm tới việc tự chế tạo, sản xuất vũ khí. Nhiều công nhân cơ khí ở thành phố Hải Phòng, Mạo Khê (Quảng Ninh) cùng thợ rèn của các làng nghề thủ công nổi tiếng trong vùng được Nguyễn Bình và các đồng chí của ông giác ngộ đã vào Chiến khu lập Binh công xưởng. Vốn liếng ban đầu của Binh công xưởng chỉ có 17 công nhân cùng một số máy móc cũ kỹ lấy được ở mỏ Mạo Khê. Lúc mới thành lập Xưởng đứng chân ở xã Thiên Đông, Thủy Nguyên, Hải Phòng (sau Cách mạng tháng Tám, Xưởng chuyển về nội thành Hải Phòng), có nhiệm vụ rèn đúc vũ khí thô sơ, mua sắm, sưu tầm, sửa chữa, sản xuất mìn, lựu đạn. Phụ trách Xưởng đầu tiên là Nguyễn Công Lý - tức Giám mục Đờ-va di ly.
Đờ-va di ly vốn cùng quê với Nguyễn Bình (xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) song từ nhỏ đã được nuôi dạy, đào tạo ở Tòa thánh Va-ti-căng. Chưa đầy 30 tuổi, ông đã có bằng Tiến sĩ Thần học, bằng Kỹ sư Hóa vô cơ, được thụ phong Giám mục và được đeo nhẫn mình thánh, làm Bí thư cho Hồng y 72 (Bộ trưởng Bộ Nội vụ Tòa thánh Va-ti-căng). Ông thông thạo 6 ngoại ngữ: Ý, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Trung Quốc. Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Đờ-va di ly được Tòa thánh đặc phái sang Đông Dương với sứ mệnh như Đặc sứ toàn quyền của Va-ti-căng, có nhiệm vụ bàn bạc, thống nhất với chính quyền Pháp ở Đông Dương về các chính sách có quan hệ đến Giáo hội chuẩn bị đối phó với phát xít Nhật sắp đánh chiếm Đông Dương. Ngày 9/3/1945, khi Nhật đảo chính Pháp, Đờ-va di ly chạy về đồn điền của mình ở Mông Dương (Quảng Yên). Vốn biết rõ Đờ-va di ly từ khi còn nhỏ và là một người yêu nước nhiệt thành, Nguyễn Bình đã một mình đến gặp và mời ông lên Chiến khu tham gia cách mạng. Là một trí thức thông tuệ, có tinh thần dân tộc và lòng yêu nước tha thiết, sau khi gặp Nguyễn Bình, Đờ-la di ly mới biết rõ Việt Minh chính là một tổ chức cách mạng chân chính, được thành lập theo đường hướng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nên đã giải tỏa được những mặc cảm, hiểu lầm trước đây về Việt Minh. Ông đặc biệt ngưỡng mộ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, vì thế đã nhận lời vào Chiến khu tham gia Việt Minh và được Nguyễn Bình đặt tên mới là Nguyễn Công Lý. Theo yêu cầu của Nguyễn Bình, Nguyễn Công Lý lập ngay phương án xây dựng xưởng sản xuất vũ khí. Xưởng vũ khí của Chiến khu Trần Hưng Đạo (sau là Chiến khu 3) do Nguyễn Công Lý phụ trách chính là Binh công xưởng đầu tiên ở miền Bắc chế tạo thành công 3 khẩu súng cối 60mm gửi vào chi viện kịp thời cho Nam Bộ kháng chiến đầu tháng 10/1945. Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nguyễn Công Lý tiếp tục làm Giám đốc Binh công xưởng XB ở Quỳnh Côi (Thái Bình), sau đó làm Giám đốc một số Binh công xưởng cơ khí Liên khu 3-48. Trong một lần sửa chữa súng SKZ60, không may Nguyễn Công Lý bị thương nặng. Mặc dù vậy, sau khi được chữa lành vết thương, ông vẫn tiếp tục gắn bó với nhiệm vụ sửa chữa, chế tạo vũ khí phục vụ kháng chiến. Kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, Nguyễn Công Lý chuyển về làm việc ở báo Người Công giáo yêu nước, sống âm thầm và bình lặng cho đến khi qua đời vào năm 1999. Tìm hiểu cuộc đời của Nguyễn Công Lý - một vị Giám mục, một trí thức thông tuệ tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, có lẽ chúng ta chỉ có thể dùng các cụm từ: khâm phục, kính trọng, ngưỡng mộ tinh thần yêu nước cháy bỏng, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc dành cho Nguyễn Công Lý nói riêng và cho đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung. Tinh thần đó, ý chí đó, khí phách “dĩ công vi thượng” đó của Nguyễn Công Lý và các trí thức Việt Nam tham gia kháng chiến chống Pháp mãi mãi là tấm gương sáng cho chúng ta học tập và noi theo. Đại tá, TS. VŨ TANG BỒNG Nguyên cán bộ Viện Lịch sử quân sự Việt Nam _____________________ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đồng chí Trần Đức Thịnh, nguyên Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ (1941-1945). 2. Các đồng chí Hoàng Ngọc Lương, Nguyễn Kiên Tranh, nguyên Chủ tịch và Phó Chủ tịch đầu tiên của Ủy ban cách mạng lâm thời huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng (năm 1945). 3. Thiếu tướng Bùi Sinh, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chiến lược, Học viện quân sự cao cấp (nay là Học viện Quốc phòng). 4. Thiếu tướng Nguyễn An, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. 5. Trung tướng Lê Hai, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. 6. Thiếu tướng Nguyễn Hữu Sở, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 3. 7. Đồng chí Nguyễn Bình (1908-1951), sau Cách mạng tháng Tám là Tư lệnh Chiến khu Duyên Hải - Đông Bắc. Tháng 10/1945, được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử vào làm Tư lệnh giải phóng quân Nam Bộ, kiêm Tư lệnh Khu 7; được phong Trung tướng tháng 5/1948, là Trung tướng đầu tiên và duy nhất của Quân đội ta trong kháng chiến chống Pháp. Hy sinh năm 1951. 8. Lịch sử Quân giới Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb Lao động, H, 1990 (Phần phụ lục), tr. 180, 198, 203. |