CNQP&KT - Là “Đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất” - những chức năng cơ bản này đã được Quân đội phát huy trong suốt chặng đường xây dựng, chiến đấu, trưởng thành. Cùng với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Quân đội luôn chủ động, tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế đất nước.

Trải qua gần 77 năm xây dựng và trưởng thành, Quân đội ta luôn nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, vừa xây dựng lực lượng chiến đấu, công tác, vừa tích cực tăng gia sản xuất, tự túc lương thực, thực phẩm; sản xuất vũ khí phục chiến đấu, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu; sản xuất công cụ lao động, sản phẩm dân dụng, góp phần phát triển kinh tế đất nước...

Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 23/8/1956, Bộ Quốc phòng đã thành lập Cục Nông binh để tham mưu giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế. Đây là mốc son quan trọng đánh dấu chặng đường mới khi Quân đội chuyển sang xây dựng kinh tế với quy mô lớn, tổ chức chặt chẽ và có hệ thống. Nhiều đơn vị thường trực chiến đấu với hơn 8 vạn cán bộ, chiến sĩ đã được chuyển sang thực hiện nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế; trực tiếp tham gia xây dựng các tuyến giao thông chiến lược quan trọng ở vùng Tây Bắc, các khu công nghiệp Thái Nguyên và Việt Trì, công trình thủy lợi Bắc - Hưng - Hải; hình thành 29 nông trường trên các địa bàn trọng điểm, như: Điện Biên, Yên Bái, Phú Thọ, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ninh; thành lập các đơn vị sản xuất chuyên nghiệp của quân khu và mặt trận, tạo nên thế bố trí chiến lược kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng hậu phương, khu căn cứ quan trọng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.


Đại tá Lê Nam Thắng - Cục trưởng Cục Nông trường Quân đội và các cán bộ Cục bàn kế hoạch xây dựng các nông trường.  Ảnh: TL

Sau khi đất nước thống nhất, Quân đội là lực lượng xung kích, nòng cốt, tham gia hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), nhất là trên các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo… có lúc cao điểm lên tới 28 vạn quân. Các đơn vị khai hoang, xây dựng, phát triển các khu kinh tế mới ở những địa bàn xung yếu; hình thành hệ thống nông, lâm trường quân đội trên các địa bàn chiến lược. Cùng với đó, Quân đội được giao nhiệm vụ tham gia vào những ngành kinh tế quan trọng, các công trình trọng điểm của đất nước gắn với thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Các nhà máy, xí nghiệp quốc phòng tận dụng năng lực dôi dư trong sản xuất sản phẩm quốc phòng để sản xuất phục vụ dân sinh góp phần tái thiết đất nước.

Trong giai đoạn cách mạng mới, trước những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, an ninh thế giới và khu vực, sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc đặt ra yêu cầu phải kết hợp chặt chẽ hơn nữa quốc phòng - an ninh (QP-AN) với kinh tế và kinh tế với QP-AN. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách gắn phát triển KT-XH với củng cố QP-AN nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã quán triệt, cụ thể hóa hai nhiệm vụ chiến lược và đường lối của Đảng; ban hành nhiều nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Với sự chỉ đạo chặt chẽ, quyết liệt của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội ngày càng đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Các đơn vị, đoàn kinh tế - quốc phòng (KT-QP), doanh nghiệp quân đội (DNQĐ) đã phát huy tiềm năng để lao động sản xuất, xây dựng kinh tế; vừa đổi mới, sáng tạo, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh gắn với thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; đầu tư lớn để tạo điều kiện phát triển các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo…

Việc 28 khu KT-QP hoạt động hiệu quả đã trực tiếp giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc trên những địa bàn trọng yếu dọc tuyến biên giới, biển, đảo.

Việc 28 khu KT-QP hoạt động hiệu quả đã trực tiếp giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc trên những địa bàn trọng yếu dọc tuyến biên giới, biển, đảo. Các DNQĐ cũng khẳng định vai trò quan trọng trong các lĩnh vực viễn thông, dịch vụ bay, cảng biển, đóng tàu, xây dựng, ngân hàng... Nhiều dự án quan trọng được Quân đội thực hiện tốt, như: làm đường tuần tra biên giới, rà phá bom mìn, xây dựng các công trình chiến đấu, phủ sóng thông tin vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo… Đặc biệt, quá trình triển khai sắp xếp, cơ cấu lại DNQĐ theo hướng tinh, gọn, hiệu quả đã được thực hiện nghiêm túc và thực chất. Sau sắp xếp, cơ cấu lại, hầu hết các DNQĐ duy trì được nhịp độ phát triển ổn định, đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng (CNQP) từng bước phát triển theo hướng hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu vũ khí, trang bị kỹ thuật cho Quân đội và đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngoài sản phẩm quốc phòng, các doanh nghiệp CNQP còn sản xuất nhiều sản phẩm kinh tế có thương hiệu và uy tín phục vụ trong nước và xuất khẩu, như: vật liệu nổ công nghiệp, pháo hoa, sản phẩm cơ khí, cao su kỹ thuật cao, các chủng loại tàu… Không chỉ chiếm lĩnh thị trường trong nước, một số DNQĐ đã mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực viễn thông, khai khoáng, trồng cây công nghiệp trên các địa bàn chiến lược Lào, Campuchia. Trong quá trình đầu tư, các doanh nghiệp đã chú trọng gắn kết giữa hiệu quả kinh tế với đảm bảo QP-AN; giữ vững và nâng cao uy tín của DNQĐ, góp phần thúc đẩy quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các quốc gia tiếp nhận đầu tư, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh diễn biến bất thường của thiên tai, bão lụt, dịch bệnh Covid-19, bên cạnh việc chủ động thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch để đảm bảo an toàn sản xuất, các đơn vị, DNQĐ còn tích cực chung sức tham gia phòng, chống dịch bệnh, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống bão lụt…


Thiếu tướng Trần Đình Thăng - Cục trưởng Cục Kinh tế (Bộ Quốc phòng) tặng quà đồng bào dân tộc trong vùng dự án của Binh đoàn 16.   Ảnh: CTV

Những năm tới, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi Quân đội cần phát huy hơn nữa vai trò “Đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”; trong đó cùng với việc tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, cần tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần phát triển KT-XH đất nước. Để đạt được mục tiêu đề ra, các đơn vị, DNQĐ cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về chức năng, nhiệm vụ tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội. Qua đó, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm, tinh thần vượt khó vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng và người lao động trong toàn quân cũng như các tầng lớp nhân dân. Cần tập trung tuyên truyền, giáo dục về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Quân đội trong thực hiện chức năng tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế; chủ trương, đường lối kết hợp kinh tế với quốc phòng của Đảng, Nhà nước và Quân đội. Công tác tuyên truyền, giáo dục cần được tiến hành thường xuyên, với các biện pháp, hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với tình hình thực tiễn. Kiên quyết đấu tranh phản bác luận điệu sai trái của các thế lực thù địch về chức năng, nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội nhằm hạ thấp uy tín, chia rẽ Quân đội với nhân dân, làm phai mờ bản chất cách mạng của Quân đội.

“Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là tại các địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển, đảo, khu kinh tế trọng điểm”.

(Nguồn: Văn kiện Đại hội XIII của Đảng)

Hai là, xác định phương thức tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế phù hợp với Quân đội. Các đơn vị, DNQĐ cần xác định rõ phải đồng thời thực hiện tốt cả ba chức năng “Đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”. Trong đó, cần kết hợp chặt chẽ quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Thời bình là đơn vị lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, nhưng khi cần sẽ chuyển thành các đơn vị chiến đấu, phục vụ chiến đấu, phục vụ phòng chống dịch bệnh, thiên tai, bão lụt… Các đơn vị, DNQĐ cần tiên phong trong những nhiệm vụ khó khăn về QP-AN, KT-XH ở những vùng biên giới, biển, đảo, địa bàn chiến lược.


Hoạt động khai thác cảng biển tại Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn (Quân chủng Hải quân).             Ảnh: CTV

Ba là, kết hợp chặt chẽ, phát huy tốt vai trò của các loại hình sản xuất thế mạnh trong Quân đội; đẩy mạnh đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động. Cần tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu KT-QP và đoàn KT-QP theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ưu tiên xây dựng các khu KT-QP trên hướng biển, đảo. Xây dựng các khu KT-QP thực sự trở thành những điểm sáng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, QP-AN trên các địa bàn chiến lược; có vai trò quan trọng trong phòng thủ bảo vệ biên giới đất nước khi có tình huống. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 425-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương “Về sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Tiếp tục phát triển CNQP theo hướng lưỡng dụng, thực sự trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; tăng cường tiềm lực, tận dụng và đẩy mạnh phát triển liên kết CNQP, an ninh và công nghiệp dân sinh… Tận dụng và phát huy thế mạnh về nguồn nhân lực chất lượng cao và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của Quân đội trên một số lĩnh vực tham gia nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm, vừa bảo đảm cho quốc phòng, vừa phục vụ dân sinh; giữ gìn, thu hút, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tiết kiệm ngân sách nhà nước. Động viên, khuyến khích các đơn vị thường trực, đơn vị sự nghiệp công lập phát huy thế mạnh, tận dụng năng lực dôi dư để tổ chức lao động sản xuất, xây dựng kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của từng đơn vị nhằm cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và người lao động.

Bốn là, đổi mới tư duy phát triển, sắp xếp, nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của DNQĐ. Triển khai thực hiện sắp xếp DNQĐ theo đúng chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kế hoạch sắp xếp DNQĐ yêu cầu khẩn trương, quyết liệt, toàn diện, có những giải pháp đột phá; đồng thời phải chuẩn bị kỹ, tiến hành thận trọng theo đúng quy định của pháp luật, tránh lãng phí, không để thất thoát vốn, tài sản, đảm bảo chính sách phát triển KT-XH của Đảng, Nhà nước… Việc cơ cấu lại, sắp xếp các DNQĐ phải phù hợp với Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược quân sự; gắn với Đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam, Đề án Quy hoạch Công nghiệp quốc phòng, an ninh, Đề án Quy hoạch cơ sở sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật toàn quân... đảm bảo sau sắp xếp, các doanh nghiệp tinh gọn về quy mô hoạt động, tổ chức biên chế; mạnh về năng lực quản lý, quản trị; đủ nguồn lực tài chính để thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển sản xuất kinh doanh; tăng thu nộp cho ngân sách nhà nước, nâng cao thu nhập cho người lao động. Các đơn vị, DNQĐ tích cực đổi mới, ứng dụng khoa học, công nghệ nhằm tạo động lực quan trọng để phát triển; đổi mới công tác quản trị, điều hành, chủ động nắm bắt, kịp thời tận dụng hiệu quả các cơ hội; tích cực hội nhập, đa dạng hóa thị trường; chú trọng công tác đào tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động nhằm hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Năm là, mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, gắn với nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của các đơn vị, DNQĐ; tích cực, chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Để thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động hội nhập, hợp tác quốc tế, các đơn vị, DNQĐ cần nâng cao nhận thức; quán triệt chủ trương của Đảng về “tích cực”, “chủ động” trong hội nhập, hợp tác quốc tế, thể hiện qua việc chủ động nghiên cứu, xây dựng chiến lược, kế hoạch hội nhập phù hợp với tiềm năng, lợi thế của đơn vị, DNQĐ. Quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế cần gắn kết mục tiêu kinh tế với nhiệm vụ QP-AN; giữ vững và nâng cao uy tín, hình ảnh của Nhà nước, Quân đội; góp phần thúc đẩy quan hệ về kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao và đối ngoại quốc phòng giữa Việt Nam với các nước...

Tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là chức năng, nhiệm vụ và là truyền thống quý báu của Quân đội ta; được tôi luyện trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Với nghị lực và ý chí của “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời đại mới, phát huy những kinh nghiệm, kết quả đã đạt được, Quân đội sẽ tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần xứng đáng vào phát triển KT-XH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Thiếu tướng, TS. TRẦN ĐÌNH THĂNG

Cục trưởng Cục Kinh tế - Bộ Quốc phòng

Bình luận


Họ và tên:*

Đơn vị:     

Điện thoại:*               

Email:*                       

Nội dung: