CNQP&KT - Quán triệt quan điểm của Đảng về “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi “nước chưa nguy”1, việc đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, với tính chất của “chiến tranh nhân dân”, chúng ta cũng cần có những giải pháp phù hợp.

Ngày nay, với những bước tiến dài trong lĩnh vực khoa học - công nghệ (KHCN), nhất là những thành tựu mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0) đem lại, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, phát triển các thế hệ vũ khí mới hiện đại - vũ khí công nghệ cao. Nhiều quốc gia như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp... đã và đang tiếp tục nghiên cứu sử dụng không gian vũ trụ vào các hoạt động quân sự với quy mô ngày càng tăng; nhiều nước đã thành lập lực lượng tác chiến trên không gian vũ trụ và được thử nghiệm trên chiến trường. 

Từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, Đại hội XIII của Đảng khẳng định, phải phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, quân sự, an ninh, nghệ thuật quân sự, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh xã hội trong tình hình mới. Đồng thời xác định rõ, “Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh... là một bộ phận quan trọng và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, chế tạo được một số loại vũ khí có ý nghĩa chiến lược”2. Về không gian vũ trụ, Đảng, Nhà nước và Chính phủ luôn quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo từng bước nghiên cứu, triển khai đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cụ thể là: Quyết định số 127/QĐ-TTg ngày 26/1/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến năm 2030; Quyết định số 169/QĐ-TTg ngày 4/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành Chiến lược phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ vũ trụ đến năm 2030.  Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 1015/BTP-VĐCXDPL về việc đề xuất giao cơ quan chủ trì nghiên cứu Luật Vũ trụ quốc gia. Quán  triệt quan điểm của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, những năm qua, ngành Công nghiệp quốc phòng (CNQP) đã đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu thiết kế, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT). Thực tế, hiện trên 80% sản phẩm do CNQP sản xuất là kết quả của các đề tài nghiên cứu thiết kế, chế tạo VKTBKT mới. Bước đầu, ngành CNQP Việt Nam cũng đã nghiên cứu thiết kế, chế tạo thành công vũ khí công nghệ cao có điều khiển.


Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ số vào sản xuất, chế thử khí tài ở Viện Kỹ thuật Hải quân.                Ảnh: CTV

Từ những vấn đề trên, để nhận thức đúng về nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam hiện nay, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tuyên truyền nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về chiến tranh nhân dân trong tình hình mới cũng như sự cần thiết phải đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao.

Cách mạng 4.0 đã và đang tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia, trong đó có quốc phòng, an ninh. Với sự xuất hiện nhiều loại vũ khí mới, hiện đại, thông minh, sử dụng trí tuệ nhân tạo đã làm thay đổi hình thức tác chiến, nghệ thuật quân sự và đường lối chiến tranh của các nước. Vì vậy, một số quan điểm cho rằng, chiến tranh nhân dân ở Việt Nam không còn phù hợp trong tình hình mới. Để có quan điểm, nhận thức đúng về vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho các cấp, các ngành, lực lượng và toàn thể nhân dân nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất cao, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, cần tập trung làm rõ nội hàm, vị trí, vai trò của vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam hiện nay. Không tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí công nghệ cao mà xem nhẹ các loại VKTBKT khác, dẫn đến tâm lý ỷ lại vũ khí công nghệ cao hoặc tâm lý lo lắng, dao động khi phải đối phó với vũ khí công nghệ cao của địch. Đấu tranh chống những quan điểm, tư tưởng, nhận thức không đúng về chiến tranh nhân dân nói chung và vũ khí công nghệ cao nói riêng; những quan điểm xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” ở nước ta.

Không tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí công nghệ cao mà xem nhẹ các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật khác, dẫn đến tâm lý ỷ lại vũ khí công nghệ cao hoặc tâm lý lo lắng, dao động khi phải đối phó với vũ khí công nghệ cao của địch.

Hai là, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận về chiến tranh nhân dân; về VKTBKT, nhất là vũ khí công nghệ cao trong tình hình mới.

Cùng với quá trình phát triển của VKTBKT, các hình thức chiến tranh cũng có sự phát triển và không còn bị giới hạn bởi không gian, thời gian. Những hình thức chiến tranh, như: chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh thông tin, chiến tranh điện tử, tác chiến mạng được đề cập tới nhiều với tư cách là những mũi nhọn đặc trưng của các cuộc chiến tranh trong tương lai. Điều đó tất yếu dẫn đến sự thay đổi về phương thức tiến hành chiến tranh, nghệ thuật tác chiến, cách đánh và cả sự biến đổi về tổ chức quân sự. Do đó, để phòng, chống có hiệu quả vũ khí công nghệ cao cần tiếp tục nghiên cứu, luận giải và làm sáng tỏ sâu sắc thêm nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về quân sự, quốc phòng; chiến tranh nhân dân; mối quan hệ giữa vũ khí công nghệ cao với các loại vũ khí khác trong thế trận chiến tranh nhân dân ở Việt Nam. Đồng thời, phải bám sát điều kiện thực tế của đất nước, khả năng trang bị hiện có và yêu cầu của lực lượng vũ trang; về khả năng sản xuất và bảo đảm của ngành CNQP. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, tổng kết, bổ sung và phát triển lý luận chiến tranh nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.


Sản phẩm quốc phòng do Nhà máy Z125 sản xuất.  Ảnh: TRẦN LÂM

Ba là, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân nói chung và nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao nói riêng.

Hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến nhân tố con người, nhân tố quan trọng hàng đầu của mọi thắng lợi. Trong hoạt động quân sự, với quan điểm “người trước, súng sau”, Quân đội ta đã từng bước trưởng thành. Dù vũ khí có tiên tiến, hiện đại đến đâu vẫn phải có yếu tố con người; nhờ có con người mà vũ khí được sử dụng, phát huy tốt ưu thế, hiệu quả. Vì vậy, khi bàn đến nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam tất yếu phải nói đến chất lượng nguồn nhân lực, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Lực lượng trực tiếp đảm trách việc nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất các loại vũ khí là nhân lực của ngành CNQP, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, những nhà khoa học, chuyên gia giỏi, kỹ sư đầu ngành và thợ bậc cao. Đây là lực lượng tinh nhuệ, những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận nghiên cứu khoa học và sản xuất vũ khí công nghệ cao. Phát triển nguồn nhân lực CNQP chất lượng cao là “cái gốc” để Việt Nam có thể từng bước làm chủ được công nghệ lõi sản xuất các loại vũ khí tiến tiến, hiện đại, giảm dần việc mua sắm của nước ngoài, tiến tới độc lập, tự chủ về CNQP.

Để bảo đảm tốt cho hoạt động nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao cần tiếp tục đầu tư thêm thiết bị, công nghệ hiện đại, ưu tiên đối với những chương trình, dự án trọng điểm, lĩnh vực mũi nhọn.

Bốn là, có cơ chế, chính sách nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Cơ chế, chính sách có vị trí, vai trò quan trọng trong nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao. Thông qua cơ chế, chính sách mà các nguồn lực được huy động, khai thác, sử dụng có hiệu quả cao cho nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao, nhất là nguồn vốn, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất. Để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tất yếu phải có cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, sử dụng phù hợp. Hơn nữa, công tác nghiên cứu, tìm tòi, khám phá khoa học rất tốn kém, có cả những thành công và thất bại, nên cần phải có một nguồn lực tương xứng cả về vốn, nhân lực và cơ sở vật chất bảo đảm. Quan tâm đầu tư, đào tạo, bồi dưỡng phát triển đồng bộ cả đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học có trình độ cao, các nhóm nghiên cứu mạnh, chuyên sâu, đội ngũ chuyên gia, kỹ sư giỏi... Theo đó, cần có cơ chế, chính sách tuyển dụng, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân lực; cơ chế, chính sách cho các chủ thể trong nghiên cứu, chế tạo vũ khí công nghệ cao; cơ chế, chính sách về hợp tác, nghiên cứu khoa học với các cơ sở ở trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật; cơ chế hợp tác và chuyển giao KHCN; cơ chế, chính sách phối kết hợp giữa CNQP với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Quân đội...

Năm là, bảo đảm cơ sở vật chất cho nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao và nâng cao vai trò chủ thể của ngành CNQP.

Những năm qua, ngành CNQP luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất và dây chuyền, thiết bị sản xuất hiện đại. Mặc dù vậy, nhìn tổng thể, cơ sở vật chất của ngành còn gặp không ít khó khăn, một số dây chuyền công nghệ cũ, xuống cấp; cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, nhất là nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao còn hạn chế. Vì vậy, để bảo đảm tốt cho hoạt động nghiên cứu, phát triển VKTBKT nói chung và vũ khí công nghệ cao nói riêng, cần tiếp tục đầu tư thêm thiết bị, công nghệ hiện đại, ưu tiên đối với những chương trình, dự án trọng điểm, lĩnh vực mũi nhọn. Kết hợp chặt chẽ giữa đầu tư mới, hiện đại hóa công nghệ, “đi tắt, đòn đầu” với đầu tư nâng cấp các cơ sở vật chất, trang - thiết bị hiện có, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm. Xây dựng và phát triển CNQP theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia.

Sáu là, tăng cường hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực CNQP, ưu tiên có trọng tâm, trọng điểm trong nghiên cứu, phát triển một số loại vũ khí có ý nghĩa chiến lược.

Từ kinh nghiệm xây dựng và phát triển CNQP Việt Nam cũng như kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới và yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực CNQP. Mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp cận, tiếp thu và làm chủ công nghệ sản xuất các loại VKTBKT hiện đại, tiên tiến trên thế giới và khu vực. Thực hiện liên doanh, liên kết, chuyển giao công nghệ sản xuất VKTBKT hiện đại; đồng thời, đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của CNQP với các đối tác nước ngoài. Nội dung, hình thức hợp tác phải đa dạng, phong phú từ trao đổi thông tin, tổ chức và tham gia triển lãm quốc tế về CNQP đến chuyển giao công nghệ sản xuất; hợp tác trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; nghiên cứu hợp tác trong phát triển các công nghệ mũi nhọn; hợp tác trong phát triển thị trường xuất khẩu và xúc tiến thương mại sản phẩm CNQP. Mở rộng, đa dạng hóa hợp tác bao gồm cả đối tác truyền thống và đối tác mới, cả song phương và đa phương, tạo bước đột phá trong nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao.

Đại tá, PGS, TS. HOÀNG VĂN PHAI

Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự - Học viện Chính trị

____________________

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, tr.101.

2. Sđd, tr.279.

Bình luận


Họ và tên:*

Đơn vị:     

Điện thoại:*               

Email:*                       

Nội dung: