CNQP&KT - Đảng ta xác định: “Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, thực sự trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia”, điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc tăng cường tiềm lực kinh tế quân sự, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trước hết, cần khẳng định rằng, tiềm lực kinh tế quân sự (KTQS) có vai trò quyết định đến sức mạnh quân sự quốc gia, tác động trực tiếp đến khả năng tác chiến của lực lượng vũ trang; đến kết quả nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Nói đến tiềm lực KTQS là nói đến bộ phận đặc thù trong tiềm lực kinh tế, thể hiện khả năng mà một quốc gia có thể huy động để đáp ứng các nhu cầu đối phó với chiến tranh và các nguy cơ khác đe dọa quốc phòng - an ninh của đất nước. Tiềm lực KTQS bao gồm nguồn nhân lực tham gia sản xuất hàng hóa và dịch vụ phục vụ lực lượng vũ trang và trong biên chế của lực lượng vũ trang; các ngành sản xuất công nghiệp quốc phòng (CNQP); kết cấu hạ tầng quân sự; các nguồn dự trữ vũ khí trang bị, lương thực, thực phẩm… phục vụ cho hoạt động quân sự, quốc phòng. Sự phát triển của tiềm lực KTQS phụ thuộc vào các yếu tố: tiềm lực của nền kinh tế đất nước (trực tiếp là trình độ lực lượng sản xuất); vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của quốc gia; chiến lược quân sự và đường lối chính trị; quan hệ đối ngoại, liên minh kinh tế - chính trị - quân sự với các quốc gia khác... Tiềm lực KTQS có vai trò quyết định đến sức mạnh quân sự quốc gia, tác động trực tiếp đến khả năng tác chiến của lực lượng vũ trang; đến kết quả nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đang đứng trước yêu cầu mới khi mà tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; thời cơ và thách thức về quốc phòng - an ninh (QP-AN) đan xen: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo... Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn… Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng”; “Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng do tác động của đại dịch Covid-19. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại… ngày càng quyết liệt”; “An ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu… tiếp tục diễn biến phức tạp”. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, quyết liệt hơn… Trong điều kiện đó, nhu cầu kinh tế đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng cao cả về quy mô và trình độ, song các nguồn lực từ nền kinh tế không tự nó trở thành tiềm lực quốc phòng mà phải thông qua xây dựng tiềm lực KTQS. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cần tăng cường tiềm lực KTQS để bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Theo đó, cần chú trọng một số giải pháp sau: Một là, phát triển mạnh khoa học - công nghệ, tạo điều kiện phát triển tiềm lực kinh tế quân sự. Tiềm lực khoa học - công nghệ (KHCN) là thành tố quan trọng trong tiềm lực KTQS, được biểu hiện ở khả năng phát triển KHCN; số lượng và chất lượng đội ngũ nhà khoa học; cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu khoa học quân sự… Trong điều kiện chiến tranh hiện đại với vũ khí, phương tiện công nghệ cao, đặt ra yêu cầu xây dựng tiềm lực KTQS phải chú trọng phát triển KHCN hiện đại, lưỡng dụng: “Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, thực sự trở thành một mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; nghiên cứu sản xuất vũ khí công nghệ cao; tăng cường tiềm lực, tận dụng và đẩy mạnh phát triển liên kết công nghiệp QP-AN và công nghiệp dân sinh”. Theo đó, cùng với việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, cần chú trọng gia tăng đầu tư ngân sách cho phát triển KHCN. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới phục vụ trực tiếp cho phát triển tiềm lực KTQS, như: công nghiệp luyện kim, cơ khí chế tạo, năng lượng, nhiên liệu, hóa chất, điện tử, công nghệ thông tin… ![]() Sản xuất kính ngắm quang học tại Nhà máy Z199 (thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng). Ảnh: VŨ DŨNG Hai là, đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng. CNQP là một phần quan trọng của thực lực và tiềm lực QP-AN, là ngành công nghiệp đặc thù. Ngoài nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển, sản xuất, hiện đại hóa vũ khí, trang bị… phục vụ quốc phòng, CNQP còn tham gia phát triển kinh tế, xã hội, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng ta xác định: “Phát triển CNQP, an ninh theo hướng lưỡng dụng, thực sự trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia”, điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để phát triển CNQP theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng cần quán triệt, triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển CNQP đến năm 2030 và những năm tiếp theo; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 23/NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Các doanh nghiệp quân đội cần xây dựng chiến lược phát triển các ngành, như: cơ khí chế tạo, điện - điện tử, công nghệ thông tin - viễn thông, dịch vụ cảng biển và logistics, đóng mới và sửa chữa tàu biển, xây dựng cầu - hầm lớn, vận tải, khai thác khoáng sản, sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp... trên các địa bàn chiến lược, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, mở rộng phương thức huy động nguồn lực xây dựng CNQP và nâng cao khả năng bảo đảm của CNQP; đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư, huy động có hiệu quả các nguồn vốn để đầu tư xây dựng, phát triển tổ hợp CNQP; huy động sự tham gia của KHCN quốc gia, công nghiệp dân sinh; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp phụ trợ cho CNQP. Tiếp tục đẩy nhanh tiến trình kiện toàn tổ chức, sắp xếp lại các cơ sở CNQP nòng cốt, các viện nghiên cứu... theo hướng giảm số lượng, tăng quy mô, gắn nghiên cứu thiết kế với sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác quản lý. Đầu tư phát triển một số lĩnh vực sản xuất quân sự then chốt, mũi nhọn có trình độ ngày càng hiện đại; làm chủ công nghệ hiện đại để nâng cao khả năng tác chiến bảo vệ chủ quyền quốc gia. Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách đặc thù cho xây dựng và phát triển CNQP theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng. Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất quy hoạch lại hệ thống cơ sở CNQP; đổi mới, hoàn thiện tổ chức và cơ chế quản lý lực lượng CNQP theo hướng tinh, gọn, mạnh, bảo đảm gắn kết CNQP với công nghiệp quốc gia. Ba là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu hoạt động quân sự, quốc phòng. Phát triển nguồn nhân lực được Đảng ta xác định là một trong ba đột phá chiến lược nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập. Trước yêu cầu của nhiệm vụ QP-AN trong tình hình mới, để nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu KHCN quân sự, cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao có năng lực sáng tạo, khả năng tiếp thu, làm chủ công nghệ tiên tiến. Do vậy, cần đẩy mạnh thực hiện các chương trình đào tạo nhân lực chất lượng cao, các chuyên gia giỏi; ưu tiên xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học có trình độ cao, đội ngũ kỹ sư giỏi, chuyên gia đầu ngành về thiết kế công nghệ, tổ chức quản lý sản xuất quân sự, kỹ thuật viên và thợ bậc cao. Ban hành cơ chế, chính sách thu hút nhân tài từ các tổ chức kinh tế - xã hội, các cơ sở nghiên cứu, các viện thiết kế có liên quan và chuyên gia nước ngoài có trình độ cao tham gia các chương trình, dự án công nghệ cao thuộc lĩnh vực quân sự, CNQP. Bốn là, xây dựng cơ cấu kinh tế quân sự hợp lý. Việc xây dựng cơ cấu KTQS hợp lý là nội dung quan trọng, góp phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế đáp ứng cao nhất nhu cầu hoạt động quân sự, quốc phòng. Chú trọng xây dựng cơ cấu ngành KTQS với quy mô, trình độ phù hợp đảm bảo tính cơ động và sức sống của nền KTQS. Về cơ cấu vùng, cần quy hoạch xây dựng, bố trí các cơ sở KTQS theo hướng đáp ứng kịp thời nhu cầu quân sự tại chỗ; đẩy mạnh xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, doanh nghiệp kinh tế - quốc phòng gắn với bố trí khu vực phòng thủ để đảm bảo kết hợp phát triển kinh tế gắn với giữ vững QP-AN, nhất là ở các địa bàn chiến lược: “Kết hợp có hiệu quả QP-AN với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Tổ chức cơ cấu, sắp xếp lại các cơ sở sản xuất quốc phòng theo hướng tập trung, giảm số lượng, tăng quy mô và sự gắn kết với công nghiệp dân sinh. Nghiên cứu thành lập các tổng công ty theo ngành, nhóm sản phẩm; từng bước đưa các doanh nghiệp quân đội mạnh về kỹ thuật, tài chính vào đội hình đơn vị mũi nhọn để tập trung đầu tư công nghệ tiên tiến, hiện đại. Năm là, đẩy mạnh hợp tác, đối ngoại kinh tế, quốc phòng. Quá trình xây dựng tiềm lực KTQS bị chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố liên minh kinh tế - chính trị giữa các quốc gia. Do vậy, đẩy mạnh hợp tác, đối ngoại kinh tế, quốc phòng có ý nghĩa to lớn để gia tăng tiềm lực KTQS. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh… Nâng cao mức độ và chất lượng hội nhập quốc tế để mở rộng thị trường, tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, kiến thức và kỹ năng quản lý; nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế”. Theo đó, cần phát triển quan hệ hợp tác quân sự - quốc phòng với các đối tác chiến lược, chủ động tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng. Tăng cường hợp tác quốc tế trong mua sắm và chuyển giao công nghệ sản xuất vũ khí, trang bị; mở rộng quan hệ hợp tác KTQS với các nước để hiện đại hóa Quân đội. Các doanh nghiệp quân đội tích cực đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đủ sức hội nhập thị trường thế giới. Tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá và xây dựng thương hiệu ở cả trong và ngoài nước cho các sản phẩm do CNQP sản xuất; đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm CNQP, góp phần thực hiện mục tiêu kép là hiện đại hóa Quân đội và phát triển kinh tế - xã hội. Có thể thấy, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trước mọi nguy cơ chiến tranh, đất nước phải có KTQS mạnh và phải chuẩn bị kỹ lưỡng ngay từ thời bình. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần chuẩn bị tốt tiềm lực KTQS, tạo thuận lợi giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững; đồng thời, sẵn sàng chuyển thành thực lực quốc phòng, khi buộc phải tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Thượng tá, ThS. ĐỖ THỊ QUỲNH ANH Trường Sĩ quan Lục quân 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 105-106. 2, 3. Sđd, tr. 106-107. 4, 5. Sđd, tr.245. 6. Sđd, tr.68. 7. Sđd, tr.281, 283. |