CNQP&KT - Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến phát triển kinh tế biển, đảo. Sự quan tâm và tình cảm đó được thể hiện qua những bức thư, bài viết, bài nói chuyện với quân, dân vùng biển khi Người đến thăm. Tư tưởng đó có giá trị to lớn đối với chúng ta trong công cuộc phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc ngày nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm và dành nhiều tình cảm cho nhân dân vùng biển, đảo và lực lượng vũ trang nhân dân bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc. Sự quan tâm và tình cảm đó được thể hiện qua những bức thư, bài viết, bài nói chuyện với quân, dân vùng biển khi Người đến thăm. Những lời căn dặn của Người vô cùng sâu sắc và có giá trị to lớn đối với chúng ta trong công cuộc phát triển kinh tế biển và bảo vệ vùng biển, đảo hiện nay.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phải biết khai thác các tiềm năng, thế mạnh từ biển để phát triển kinh tế phục vụ nhiệm vụ bảo vệ và kiến thiết đất nước. Người từng nhiều lần khẳng định, biển ta là “biển bạc”, nơi đây chứa nhiều tài nguyên phong phú và quý hiếm, là một trong những nguồn lực to lớn để phát triển kinh tế, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Trên cương vị Chủ tịch nước, Người nhiều lần đến thăm nhân dân và cán bộ, chiến sĩ vùng biển, đảo để chỉ đạo, động viên hoạt động phát triển kinh tế biển; đồng thời, cũng đề cao vai trò của các cảng biển và phát triển vận tải biển. Ngày 30/5/1957, khi đến thăm Cảng Hải Phòng, Người nhắc nhở: “Cảng ta là cửa ngõ miền Bắc xã hội chủ nghĩa… Muốn xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa, phải có công nghiệp hiện đại, giao thông vận tải hiện đại, cảng hiện đại”1. Từ vị trí, vai trò của biển, đảo, Hồ Chí Minh luôn đề cao mối quan hệ giữa phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Ngày 15/3/1961, nhân dịp đến thăm Bộ đội Hải quân lần thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”2. Người chỉ ra tính thống nhất biện chứng, mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển với bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là cơ sở để ổn định sản xuất, phát triển kinh tế biển, kiến thiết đất nước và ngược lại ổn định sản xuất, phát triển kinh tế biển là cơ sở để nâng cao năng lực, khả năng tự vệ trước các âm mưu, hành động của kẻ thù hòng xâm chiếm, đánh phá biển, đảo của Tổ quốc.


Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm đảo Cô Tô (Quảng Ninh) ngày 9/5/1961. Ảnh: TL

Theo Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sự nghiệp của toàn dân, trực tiếp là chính quyền, đồng bào miền biển. Ngày 10/4/1956, khi nói chuyện tại Hội nghị cán bộ phát động miền biển, Người căn dặn nhân dân miền biển phải cùng nhau đoàn kết trong phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Đây là vấn đề sống còn của cách mạng Việt Nam, mang tính nguyên tắc chiến lược trong sự nghiệp phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Bởi lẽ, chính nhân dân là lực lượng trực tiếp lao động sản xuất, phát triển kinh tế biển và bảo vệ biển, đảo. Phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sự nghiệp của toàn dân. Cùng với đó, Người cũng cho rằng, muốn phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo thì phải chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, trong đó có nhân dân miền biển. Ngày 31/3/1959, khi nói chuyện với ngư dân làng cá Tuần Châu (Quảng Ninh) và Cát Bà (Hải Phòng), Người khuyên: “Ngư dân phải khỏe mạnh hơn nữa mới đi được biển…, nghề cá ở đảo rồi đây phải đưa máy móc vào. Đảng và Chính phủ sẽ giúp đỡ bà con sắm thuyền lưới tốt hơn để phát triển sản xuất”3. Để nêu cao vai trò, trách nhiệm của Đảng và Chính phủ, Người chỉ rõ: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”4. Kinh tế biển phát triển sẽ tạo ra công ăn, việc làm, đồng thời, giúp đồng bào miền biển gắn bó hơn với biển, tích cực lao động sản xuất cải thiện chất lượng cuộc sống, nâng cao năng lực, khả năng bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao việc phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, bên cạnh việc phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân, cần phải có lực lượng chuyên trách, làm nòng cốt - đó chính là lực lượng vũ trang. Người từng dặn dò cán bộ, chiến sĩ Hải quân: “Bờ biển ta có vị trí rất quan trọng. Vì vậy, nhiệm vụ của Hải quân trước mắt cũng như lâu dài rất nặng nề nhưng rất vẻ vang. Phải biết tìm ra cách đánh phù hợp với điều kiện con người, địa hình bờ biển nước ta và vũ khí trang bị mình có. Hải quân ta phải học tập kinh nghiệm chiến đấu hiện đại nhưng không được quên truyền thống đánh giặc xa xưa kia của tổ tiên”5. Đây là lời giáo huấn sâu sắc của Người đối với Hải quân nhân dân Việt Nam và cũng là định hướng chiến lược để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.

Hiện nay, nhiệm vụ phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: “Tình hình Biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định của khu vực và môi trường đầu tư phát triển”6. Vì vậy, để vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong tình hình hiện nay, khi nhiệm vụ phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo đặt ra yêu cầu ngày càng cao, với nhiều tình huống phức tạp, khó lường, thì vai trò lãnh đạo của Đảng cần phải được nhận thức đầy đủ và khẳng định trong thực tiễn. Trên cơ sở sự lãnh đạo, định hướng của Đảng, Nhà nước thực hiện việc quản lý chủ quyền biển, đảo theo đúng Hiến pháp, pháp luật và quản lý việc tuân thủ, thực thi luật pháp quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Hai là, thường xuyên nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Đây là giải pháp quan trọng, nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong hệ thống chính trị và toàn xã hội đối với việc phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Do đó, cần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, tuyên truyền, tập trung vào vị trí, vai trò, tầm quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; truyền thống, ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo của dân tộc ta; đường lối, chính sách phát triển kinh tế biển gắn với giải quyết các vấn đề biển, đảo của Đảng và Nhà nước ta; âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề biển, đảo để chống phá nước ta; tính chất khó khăn, phức tạp, nhạy cảm của nhiệm vụ phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay. Kết hợp nhiều hình thức giáo dục, tuyên truyền, phù hợp với trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân. Phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông trong nước…

Ba là, thực hiện hiệu quả việc phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm tốt nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trên biển.

Phát triển kinh tế biển và bảo đảm quốc phòng - an ninh là hai nhiệm vụ quan trọng, có mối quan hệ thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau. Bảo đảm phát triển kinh tế biển chính là tạo cơ sở cho việc bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và ngược lại. Do đó, cần tiếp tục xây dựng lực lượng, tổ chức và triển khai thế trận quốc phòng, an ninh, kết hợp phát triển kinh tế biển một cách hợp lý; kết hợp chặt chẽ giữa quá trình “dân sự hóa” trên biển với xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh, thế trận lòng dân vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Chú trọng, quan tâm đến tính lưỡng dụng của các lực lượng vừa tham gia phát triển kinh tế biển, vừa thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Bốn là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh để quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, góp phần phát triển kinh tế biển.

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Do vậy, cần chú trọng xây dựng các lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo, dự bị động viên, dân quân tự vệ biển mạnh, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, trong đó lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng là nòng cốt. Cùng với việc duy trì sẵn sàng chiến đấu cao, cần nắm chắc tình hình trên các vùng biển, nhất là vùng biển trọng điểm, nhạy cảm, không để bị động, bất ngờ; thường xuyên diễn tập, huấn luyện phòng thủ, cứu hộ, cứu nạn trên biển; hỗ trợ, duy trì các hoạt động giao thương, vận tải, phát triển kinh tế biển theo đúng pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế. Khi có những vấn đề mới, tình huống phát sinh nằm ngoài phạm vi quyền hạn cần tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về phương châm, đối sách, biện pháp xử lý; kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, chủ động, sáng tạo, linh hoạt bảo vệ vững chắc chủ quyền, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên biển. Bên cạnh đó, lực lượng vũ trang nhân dân các địa phương ven biển, lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển tích cực lao động sản xuất thiết thực, hiệu quả; hỗ trợ nhân dân vùng biển ổn định sản xuất, yên tâm phát triển kinh tế biển, nhất là những vùng biển, đảo xa còn nhiều khó khăn, góp phần tạo thế và lực cho đất nước trong quá trình phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Năm là, không ngừng chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân miền biển.

Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân miền biển được nâng cao sẽ là động lực cho phát triển kinh tế và nâng cao năng lực, khả năng bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đời sống vật chất, tinh thần đồng bào miền biển cũng phản ánh tính hiệu quả của việc phát triển kinh tế biển. Do đó, cần phát triển kinh tế biển theo hướng bền vững, tập trung xây dựng và nhân rộng các mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh, đa dạng các ngành, nghề theo hướng chuyên sâu và hiện đại. Phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành của cấp ủy, chính quyền địa phương miền biển trong phát triển kinh tế, chăm lo đời sống nhân dân, bảo đảm tốt an sinh xã hội; đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của nhân dân về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chăm sóc sức khỏe... Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước ở các địa phương miền biển thực sự tiêu biểu về tài năng và đạo đức, là tấm gương sáng, mẫu mực để nhân dân học tập, noi theo. Qua đó, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền địa phương, xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển vững chắc, là tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.

Thiếu tá, ThS. NGUYỄN THANH HIỆP

Thiếu tá CHU XUÂN ĐẠI THẮNG

Trường Sĩ quan Lục quân 2

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

 1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2011, t.10, tr.561.

2, 5. Truyền thống Hải quân nhân dân Việt Nam (1955-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 80.

3. Bài nói chuyện khi Bác Hồ về thăm làng cá Tuần Châu (Quảng Ninh) và Cát Bà (Hải Phòng) ngày 31-3-1959.

4. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2011, t.4, tr.187.

6. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.88.

Bình luận


Họ và tên:*

Đơn vị:     

Điện thoại:*               

Email:*                       

Nội dung: