CNQP&KT - Xây dựng Luật Công nghiệp quốc phòng, An ninh và Động viên công nghiệp (CNQP, AN và ĐVCN) nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển CNQP, AN theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng, đủ năng lực nghiên cứu, sản xuất vũ khí công nghệ cao, phương tiện kỹ thuật phục vụ quốc phòng, an ninh. Trong đó, huy động sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong hoạt động CNQP, AN là chính sách rất quan trọng.

Công nghiệp quốc phòng, an ninh là một bộ phận quan trọng của công nghiệp quốc gia và tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước. Những năm qua, Đảng và Nhà nước có đường lối, chính sách xây dựng và phát triển CNQP, AN theo hướng lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Việc phát huy tính lưỡng dụng, tăng cường sự liên kết giữa CNQP, AN với công nghiệp dân sinh; huy động tối đa thành tựu của công nghiệp quốc gia phục vụ CNQP, AN cần được triển khai theo cả hai hướng: phát huy hiệu quả hạ tầng kỹ thuật - công nghệ của các cơ sở CNQP, AN thông qua việc sản xuất kinh tế phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước; huy động công nghệ lưỡng dụng của công nghiệp dân sinh phục vụ CNQP, AN.

Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình triển khai thực hiện nội dung này còn một số bất cập, đó là: Hiện nay, chưa có chính sách khuyến khích phát triển CNQP, AN theo hướng lưỡng dụng. Trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch xây dựng và phát triển CNQP, công nghiệp an ninh (CNAN) nội dung "lưỡng dụng" chưa được quan tâm đúng mức. Các dự án đầu tư mới cơ bản chỉ đáp ứng được yêu cầu sản xuất vũ khí, trang bị, công cụ hỗ trợ phục vụ quốc phòng, an ninh; chưa có đánh giá, dự báo các yếu tố về khả năng sản xuất hoặc chuyển đổi để sản xuất phục vụ nhu cầu dân sinh. Điều này gây ra những hạn chế trong việc tận dụng năng lực đã được đầu tư để phát triển sản phẩm kinh tế phục vụ CNH, HĐH đất nước. Ngoài ra, do chưa có chính sách khuyến khích phát triển theo hướng lưỡng dụng nên khi nghiên cứu sản xuất hoặc nhập khẩu dây chuyền, hợp tác chuyển giao công nghệ chưa tính đến khả năng chuyển đổi sản xuất, chưa phát huy hiệu quả sản xuất lưỡng dụng.


Việc huy động sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong hoạt động CNQP, AN và ĐVCN sẽ được "luật hóa". (Trong ảnh: Dây chuyền sản xuất của Công ty Cổ phần Tập đoàn Trường Hải). Ảnh: CTV

Bên cạnh đó, phạm vi các lĩnh vực hoạt động của CNQP, AN mà cơ sở công nghiệp dân sinh tham gia còn hạn chế, mới chỉ tập trung vào lĩnh vực xây dựng cơ bản, cung cấp vật tư, thiết bị. Những lĩnh vực công nghệ cao, có tính lưỡng dụng, như: luyện kim, hóa chất, điện tử, công nghệ thông tin, vật liệu, chưa được mở rộng để thu hút sự tham gia của công nghiệp dân sinh vào chuỗi sản xuất CNQP, AN. Trong quy hoạch của các ngành kinh tế chưa chú trọng lồng ghép kết hợp bổ sung tiềm lực cho CNQP, AN. Các dự án đầu tư của Nhà nước cho công nghiệp dân sinh, chưa xem xét, đánh giá nhu cầu của CNQP, AN khiến việc huy động công nghiệp dân sinh vào cung ứng các sản phẩm, dịch vụ phục vụ quốc phòng, an ninh chưa hiệu quả, chưa thể đóng vai trò giúp CNQP, AN trở thành mũi nhọn tạo đột phá cho công nghiệp quốc gia. Ngoài ra, chưa có chính sách đủ mạnh để thu hút, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển CNQP, AN theo hướng lưỡng dụng.

Do vậy, trong quá trình thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển CNQP, AN, cần xây dựng các quy định, hành lang pháp lý để định hướng phát triển CNQP, AN có hàm lượng công nghệ lưỡng dụng cao, huy động sự tham gia của công nghiệp dân sinh trong hoạt động CNQP, AN. Xây dựng cơ chế phát huy tối đa hiệu quả vốn đầu tư và năng lực của các dây chuyền quốc phòng, an ninh trong phục vụ nhu cầu dân sinh, đẩy mạnh xuất khẩu vũ khí; cơ chế ưu đãi, khuyến khích các cơ sở CNQP, CNAN sản xuất sản phẩm kinh tế. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để huy động tối đa năng lực sản xuất, công nghệ của các thành phần kinh tế công nghiệp dân sinh trong nước, cũng như hợp tác quốc tế cho phát triển CNQP, AN; trong đó hoàn thiện quy định về phương thức liên doanh, liên kết giữa CNQP, AN với doanh nghiệp ngoài lực lượng vũ trang.

Cần xây dựng các quy định, hành lang pháp lý để định hướng phát triển CNQP, AN có hàm lượng công nghệ lưỡng dụng cao, huy động sự tham gia của công nghiệp dân sinh trong hoạt động CNQP, AN.

Để giải quyết vấn đề nêu trên, cần tập trung vào một số giải pháp, cụ thể là:

Thứ nhất, nên quy định khái quát trong Luật CNQP, AN và ĐVCN các khái niệm về lưỡng dụng, công nghệ lưỡng dụng...; những nguyên tắc về việc phải đánh giá các tiêu chí lưỡng dụng trong xây dựng, thẩm định và phê duyệt quy hoạch, kế hoạch, dự án đầu tư xây dựng và phát triển CNQP, AN, làm cơ sở để xây dựng các văn bản dưới Luật sát với thực tế, mang tính khả thi cao.

Thứ hai, xây dựng chính sách ưu đãi về vốn để doanh nghiệp CNQP, AN đầu tư cho chuyển đổi sản xuất hàng kinh tế trên cơ sở dây chuyền công nghệ hiện có; ưu đãi về thuế, phí... đối với các mặt hàng kinh tế được sản xuất trên các dây chuyền quốc phòng, an ninh. Phân công chuyên môn hóa một số lĩnh vực công nghệ đặc thù lưỡng dụng phục vụ dân sinh, như: hóa nổ, đóng tàu, quang điện tử, vũ trụ, vệ tinh, không gian mạng, trí tuệ nhân tạo, vật liệu mới...


Hoạt động sản xuất tại Tổng công ty Sản xuất thiết bị Viettel. Ảnh: CTV

Thứ ba, xây dựng các quy định, như: giao Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đề xuất lĩnh vực, ngành nghề lưỡng dụng, Chính phủ phê duyệt để làm tiêu chí ưu tiên, định hướng chung cho các dự án đầu tư; các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp vay vốn để đầu tư sản xuất, nghiên cứu phát triển sản phẩm, công nghệ lưỡng dụng; các điều kiện nội địa hóa sản xuất, chuyển giao công nghệ lưỡng dụng đối với các hợp đồng nhập khẩu sản phẩm quốc phòng, an ninh; chính sách đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tiếp nhận chuyển giao công nghệ lưỡng dụng được sử dụng phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Thứ tư, đối với các dự án đầu tư của Nhà nước cho công nghiệp dân sinh, nhất là các ngành sản xuất nguyên liệu, bán thành phẩm, như: luyện kim, hóa chất, điện, điện tử, viễn thông… cần có đánh giá thêm yếu tố lưỡng dụng, khả năng đáp ứng nhu cầu cho CNQP, AN. Đồng thời, quy định trong Luật cho phép các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia hoạt động CNQP, AN; quy định phạm vi, lĩnh vực hoạt động CNQP, AN mà công nghiệp dân sinh tham gia; chính sách thu hút của Nhà nước đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân (cả trong và ngoài nước) tham gia hoạt động CNQP, AN; quy định điều kiện tham gia các hoạt động CNQP, AN…

Việc tham gia sản xuất hàng kinh tế không chỉ khai thác, tận dụng hiệu quả vốn đầu tư mà còn giúp duy trì được năng lực sản xuất của dây chuyền quốc phòng, an ninh trong thời bình, sẵn sàng sản xuất quốc phòng cho các tình huống thời chiến.

Việc triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ có tác động tích cực về nhiều mặt. Cụ thể:

Về kinh tế, sẽ phát huy được hiệu quả đầu tư cho các cơ sở CNQP, AN do có đánh giá về tính lưỡng dụng, có xem xét các yếu tố về thị trường và có định hướng các ngành nghề, lĩnh vực lưỡng dụng. Chính sách khuyến khích sản xuất hàng kinh tế trên các dây chuyền quốc phòng, an ninh giúp khai thác được công suất, nhân lực dôi dư của dây chuyền, nâng cao doanh thu cho các doanh nghiệp CNQP và cơ sở CNAN. Chính sách đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tiếp nhận chuyển giao công nghệ lưỡng dụng được sử dụng phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh sẽ khuyến khích, thu hút đầu tư, tạo sức hút tham gia hoạt động CNQP, AN của công nghiệp dân sinh. Việc cho phép các thành phần kinh tế tham gia hoạt động CNQP, AN và quy định đánh giá nhu cầu phục vụ CNQP, AN đối với các dự án đầu tư của Nhà nước cho lĩnh vực công nghiệp dân sinh sẽ góp phần giảm ngân sách đầu tư cho CNQP, AN khi có thể tận dụng, huy động năng lực từ công nghiệp dân sinh trong thực hiện chính sách xây dựng CNQP, AN tự lực, tự cường. Đồng thời, việc mở rộng phạm vi tham gia hoạt động CNQP, AN của các thành phần kinh tế của công nghiệp dân sinh cũng giúp bổ sung nguồn lực cho phát triển CNQP, AN, góp phần tăng thu nhập cho người lao động.

Về mặt xã hội, việc tham gia sản xuất hàng kinh tế không chỉ khai thác, tận dụng hiệu quả vốn đầu tư mà còn giúp duy trì được năng lực sản xuất của dây chuyền quốc phòng, an ninh trong thời bình, sẵn sàng sản xuất quốc phòng cho các tình huống thời chiến hay tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Đồng thời, việc tham gia hoạt động CNQP, AN của các thành phần kinh tế cũng gắn được trách nhiệm của các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức của công nghiệp dân sinh đối với nghĩa vụ xây dựng và củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội, góp phần nâng cao ý thức tự hào dân tộc trong toàn xã hội.

Về hệ thống pháp luật, việc triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ giúp khắc phục được những hạn chế, bất cập của Pháp lệnh CNQP; cập nhật được các văn bản luật liên quan, luật hóa các quy phạm dưới Luật hiện hành để phù hợp với tình hình hiện nay.

Có thể nói, việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, khắc phục sự mâu thuẫn và nâng cao hiệu quả pháp lý của hệ thống pháp luật về CNQP, AN theo hướng đổi mới, đồng bộ, thiết thực, khả thi; tạo bước đột phá cho phát triển CNQP, AN và nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp là vấn đề hết sức cấp bách hiện nay. Việc tạo cơ sở pháp lý để từng bước "xã hội hóa", thu hút nguồn lực dân sinh cho phát triển CNQP, AN; phát triển CNQP, AN kết hợp phục vụ kinh tế quốc dân sẽ góp phần đảm bảo nguồn lực cho xây dựng và phát triển CNQP, AN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới.

Trung tá, TS. NGUYỄN HỮU SƠN - Thượng tá, ThS. NGUYỄN THANH TÙNG

Bình luận


Họ và tên:*

Đơn vị:     

Điện thoại:*               

Email:*                       

Nội dung: