CNQP&KT - Quản lý sản phẩm theo vòng đời là phương pháp quản lý hiện đại, tiên tiến. Ngành Công nghiệp quốc phòng (CNQP) Việt Nam cần có những bước đi, lộ trình phù hợp trong xây dựng năng lực quản lý sản phẩm theo vòng đời nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật, góp phần xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Vòng đời của một sản phẩm là tập hợp các giai đoạn: Nghiên cứu thị trường, đề xuất ý tưởng phát triển sản phẩm; nghiên cứu thiết kế, hình thành sản phẩm; sản xuất loạt, đưa sản phẩm ra thị trường và duy trì thị phần của sản phẩm; sản phẩm thoái trào và không được sản xuất nữa. Sở dĩ có khái niệm "vòng đời" là vì đến giai đoạn cuối, người ta không để sản phẩm "biến mất" khỏi thị trường mà sẽ dùng các giải pháp về kỹ thuật, kinh tế, như: nghiên cứu bổ sung tính năng, tác dụng, mẫu mã sản phẩm; cải tiến công nghệ sản xuất để tăng năng suất, giảm chi phí; thay đổi chiến thuật, chiến lược quảng cáo, tiếp thị, điều chỉnh giá bán, v.v. nhằm làm mới cả về giá trị sản phẩm, giá trị sử dụng và khả năng cạnh tranh, đưa chúng trở lại thị trường dưới dạng khác tốt hơn. Về khía cạnh kỹ thuật, công nghệ thì vòng đời của sản phẩm gồm những hoạt động tương ứng với các giai đoạn nêu trên, gồm: nghiên cứu thiết kế, chế thử; sản xuất loạt; khai thác, sử dụng; cải tiến, sửa chữa, thanh xử lý sản phẩm. Quản lý theo vòng đời sản phẩm là áp dụng nhiều giải pháp kỹ thuật, kinh tế, công cụ quản lý tiên tiến, hiện đại để tác động một cách có tổ chức và hệ thống đến các yếu tố thuộc vòng đời sản phẩm nhằm mục tiêu tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận trên cơ sở thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Mục tiêu cụ thể trong các giai đoạn như sau: Đối với giai đoạn nghiên cứu thiết kế, chế thử là rút ngắn thời gian nghiên cứu, chế thử, tối ưu hóa thiết kế; đối với giai đoạn sản xuất loạt, đưa sản phẩm ra thị trường là: tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, tăng doanh số bán hàng, mở rộng và kéo dài thời gian chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm; đối với giai đoạn thoái trào là: duy trì thị trường, nhanh chóng "làm mới" để đưa sản phẩm trở lại vòng đời với diện mạo và bản chất mới, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Thủ trưởng Tổng cục CNQP cùng lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ trao đổi kết quả thực hiện đề tài, nhiệm vụ khoa học quân sự của Tổng cục (tháng 11/2023). Ảnh: TRẦN LÊ Trong đó, bảo đảm kỹ thuật là một mặt của công tác quản lý vòng đời sản phẩm; là tập hợp các hoạt động quản lý kỹ thuật và hoạt động kỹ thuật, công nghệ để tác động đến các khâu trong vòng đời sản phẩm, nhằm đạt được các mục tiêu nêu trên. Hệ thống bảo đảm kỹ thuật theo vòng đời sản phẩm gồm 5 thành tố cơ bản: Các cơ quan quản lý của Nhà nước, bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ của tổ chức, tập đoàn, công ty; hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, các chính sách, quy định của tổ chức, tập đoàn, công ty; các công cụ quản lý phục vụ thu thập, phân tích, xử lý dữ liệu, dự đoán, tiên lượng, hỗ trợ đưa ra quyết định của lãnh đạo; các cơ sở nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa, dịch vụ, thương mại của Nhà nước, tư nhân; các đơn vị sử dụng, khai thác sản phẩm, người tiêu dùng. Sự phát triển đồng bộ và khả năng phối hợp tốt của các thành tố trong hệ thống là điều kiện đảm bảo cho sự thành công của công tác đảm bảo kỹ thuật theo vòng đời sản phẩm.
Hiện nay, Tổng cục CNQP đã làm chủ nghiên cứu thiết kế, chế thử, sản xuất loạt lớn vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) cho sư đoàn bộ binh đủ quân; đáp ứng một phần VKTBKT cho các binh chủng pháo binh, tăng thiết giáp; bước đầu nghiên cứu, sản xuất được một số VKTBKT cho không quân, hải quân; đang xây dựng tiềm lực kỹ thuật, công nghệ để hướng tới làm chủ nghiên cứu, sản xuất VKTBKT cho hải quân, không quân. Các nhóm sản phẩm chính, gồm: súng bộ binh, súng chống tăng, súng cối; đạn bộ binh, đạn cối, đạn chống tăng, đạn pháo cao xạ, đạn pháo mặt đất; tàu quân sự, tàu bổ trợ; khí tài quang điện tử, vật tư kỹ thuật, v.v, với hàng trăm chủng loại sản phẩm. Trong đó, tỷ lệ sản phẩm nghiên cứu được ứng dụng vào sản xuất loạt đạt trên 85%; hơn 80% sản phẩm có nguồn gốc từ các đề tài nghiên cứu khoa học. Tỷ lệ nội địa hóa về công nghệ cũng như về giá trị của các sản phẩm đều đạt mức cao hơn 80%; nhiều sản phẩm đạt tỷ lệ nội địa hóa lên tới hơn 90%. Khâu bảo dưỡng, sửa chữa nhỏ và vừa được thực hiện đồng bộ với hệ thống cơ quan kỹ thuật và các trạm sửa chữa trong toàn quân; đối với sửa chữa lớn và cải tiến được thực hiện tại các nhà máy của Tổng cục CNQP, Tổng cục Kỹ thuật. Nhìn chung, hoạt động bảo đảm kỹ thuật cho VKTBKT do Tổng cục CNQP sản xuất được thực hiện toàn diện cả chiều rộng và chiều sâu, chủ động về công nghệ và vật tư kỹ thuật. Sản xuất quốc phòng trên thiết bị hiện đại tại Nhà máy Z115. Ảnh: PHƯƠNG MAI Tuy nhiên, hiện nay, khả năng nghiên cứu thiết kế, sản xuất VKTBKT hiện đại, tích hợp hệ thống, công nghệ cao của Tổng cục CNQP vẫn còn hạn chế. Việc đề xuất ý tưởng nghiên cứu sản phẩm mới chưa theo kịp nhu cầu phát triển, hiện đại hóa Quân đội. Mặt khác, quá trình nghiên cứu thiết kế, cải tiến, chế thử sản phẩm còn dài, chưa đáp ứng được đòi hỏi cấp bách về thời gian đưa sản phẩm vào trang bị. Tổng cục cũng chưa làm chủ được một số nguyên vật liệu, vật tư đặc chủng đầu vào cho sản xuất VKTBKT. Số lượng, chủng loại VKTBKT do CNQP sản xuất còn ít so với số lượng, chủng loại VKTBKT trong toàn quân. Do đó, phạm vi, quy mô, mức độ ảnh hưởng của hoạt động bảo đảm kỹ thuật đối với toàn quân còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc thu thập, phân tích, xử lý thông tin để đánh giá khả năng hỏng hóc, tuổi thọ VKTBKT và đưa ra các quyết định về bảo dưỡng, sửa chữa, cải tiến, duy trì hay kết thúc vòng đời sản phẩm còn hạn chế. Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do quản lý sản phẩm theo vòng đời là xu hướng mới, hiện đại, đang được áp dụng ở các nước, các tập đoàn có nền sản xuất lớn, thị trường rộng, sản phẩm đa dạng. Trong khi quy mô sản xuất của Việt Nam còn nhỏ, thị trường hẹp, sản phẩm chưa đa dạng; chưa có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính sách quy định hoạt động quản lý theo vòng đời sản phẩm. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực, ngân sách, cơ sở vật chất kỹ thuật cho nghiên cứu thiết kế, cải tiến VKTBKT công nghệ cao còn thiếu; khả năng đáp ứng, hỗ trợ của công nghiệp quốc gia cho CNQP còn hạn chế, đặc biệt là công nghiệp phụ trợ. Đồng thời, hệ thống bảo đảm kỹ thuật chưa hoạt động theo tính chất vòng đời sản phẩm, thiếu các công cụ quản lý, thiếu nhân lực có kỹ năng trong nghiên cứu nhu cầu, đánh giá hiệu quả sử dụng, tham mưu ra quyết định về tối ưu hóa mỗi khâu hoặc tối ưu hóa vòng đời sản phẩm.
Trong thời gian tới, để bảo đảm kỹ thuật theo vòng đời sản phẩm VKTBKT do Tổng cục CNQP sản xuất, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau: Một là, rà soát, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, hoàn thiện cơ chế, chính sách của Nhà nước và các tập đoàn, công ty tạo hành lang pháp lý để quy định trách nhiệm và khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện quản lý sản phẩm theo vòng đời, trong đó có hoạt động bảo đảm kỹ thuật theo vòng đời sản phẩm quốc phòng do CNQP sản xuất. Ví dụ, Bộ Quốc phòng quy định các doanh nghiệp phải có trách nhiệm theo dõi quá trình sử dụng sản phẩm ở đơn vị, bảo hành, hỗ trợ kỹ thuật trong bảo dưỡng, sửa chữa và thường xuyên cải tiến sản phẩm. Đồng thời, có chính sách ưu đãi và tăng giá mua để bù đắp chi phí cải tiến, nâng cấp sản phẩm cho doanh nghiệp; bố trí ngân sách để đưa sản phẩm phiên bản tốt hơn vào vòng đời, loại khỏi vòng đời các phiên bản cũ. Hai là, hoàn thiện tổ chức, biên chế cơ quan, đơn vị tham gia các khâu của quá trình bảo đảm kỹ thuật theo vòng đời sản phẩm. Bổ sung nhân lực chuyên trách, có kỹ năng và công cụ quản lý (mạng thu thập thông tin, phần mềm phân tích, xử lý, phương pháp, tiêu chuẩn đánh giá), nhất là khâu khai thác, sử dụng sản phẩm để thu thập, phân tích, xử lý thông tin, đánh giá, hỗ trợ ra quyết định về bảo dưỡng, sửa chữa, cải tiến, kéo dài, kết thúc vòng đời sản phẩm. Ba là, nâng cao năng lực tự chủ tài chính của doanh nghiệp quốc phòng thông qua đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh tế, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, tạo nguồn thu lớn và ổn định giúp tái đầu tư cho công tác bảo đảm kỹ thuật theo vòng đời sản phẩm quốc phòng vốn đòi hỏi chi phí lớn, chưa tạo ra lợi nhuận trong ngắn hạn. Bốn là, đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại, đồng bộ cho một số lĩnh vực then chốt của CNQP, tạo sức đột phá về năng lực nghiên cứu, cải tiến, sản xuất VKTBKT công nghệ cao. Đầu tư nâng cao năng lực, trình độ quản trị doanh nghiệp của các cơ sở CNQP theo mô hình tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, áp dụng các phương pháp, công cụ quản lý hiện đại, trong đó có quản lý vòng đời sản phẩm kinh tế, quốc phòng. Năm là, tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện, truyền thông cả về lý luận, thực tiễn quản lý và bảo đảm kỹ thuật vòng đời sản phẩm, tạo chuyển biến về nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ quản lý cơ quan, doanh nghiệp quốc phòng. Có thể thấy, quản lý sản phẩm theo vòng đời là phương pháp quản lý hiện đại, tiên tiến được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn hoạt động của các tập đoàn công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới. Phương pháp này đã được khai thác, áp dụng rộng rãi theo các khía cạnh khác nhau như kinh tế, kỹ thuật, thương mại và trở thành xu hướng tất yếu, quyết định sự phát triển của mỗi doanh nghiệp. CNQP Việt Nam cần tiếp cận phương pháp tiên tiến này và có bước đi, lộ trình phù hợp trong xây dựng năng lực quản lý sản phẩm theo vòng đời, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội. Thiếu tướng, TS. DƯƠNG VĂN YÊN Phó Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp quốc phòng |