Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ quân sự đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa14/12/2023CNQP&KT - Tiềm lực khoa học và công nghệ (KHCN) quân sự có vai trò hết sức quan trọng đối với nhiệm vụ củng cố quốc phòng, xây dựng Quân đội hiện đại. Do vậy, cần xây dựng tiềm lực KHCN quân sự mạnh, trong đó có tiềm lực KHCN của ngành công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Là một trong những thành tố cơ bản của tiềm lực quốc phòng, tiềm lực KHCN quân sự được hiểu là khả năng tiềm tàng về KHCN có thể huy động để giải quyết nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài và xử lý hiệu quả các tình huống quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Tiềm lực KHCN quân sự được biểu hiện ở trình độ và khả năng phát triển khoa học; số lượng và chất lượng các nhà khoa học; cơ sở vật chất phục vụ cho công tác nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng KHCN trong lĩnh vực quốc phòng. Tiềm lực KHCN quân sự tác động trực tiếp đến lĩnh vực quân sự, quốc phòng, cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang (LLVT), công tác lãnh đạo, chỉ huy và quản lý bộ đội… Những năm qua, công tác nghiên cứu phát triển KHCN luôn được Quân ủy Trung ương (QUTW), Bộ Quốc phòng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, đạt nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động KHCN quân sự được ban hành tương đối đồng bộ, phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước, đặc thù nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Tiềm lực KHCN quân sự được chú trọng đầu tư và phát triển; nhân lực KHCN được tăng cường. Các doanh nghiệp quân đội ngày càng chủ động trong nghiên cứu, sản xuất, phát triển các dòng sản phẩm công nghệ cao. Hoạt động KHCN được thực hiện đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm trên các lĩnh vực. Trình độ KHCN có sự phát triển, từng bước đáp ứng nhiệm vụ thiết kế, chế tạo, khai thác, làm chủ, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT), đặc biệt là VKTBKT công nghệ cao. Công nghiệp quốc phòng cơ bản có đủ năng lực để tự chủ nghiên cứu, sản xuất hầu hết các loại VKTBKT thiết yếu cho lục quân, thông tin liên lạc... Trong đó, đã chế tạo một số hệ thống tích hợp, các cụm khối cơ khí, điện tử, vật tư, linh kiện… phục vụ chế tạo các loại vũ khí, khí tài mới; bảo đảm kỹ thuật các loại VKTBKT trong biên chế của các quân chủng, binh chủng... Kết quả nghiên cứu được áp dụng vào thực tiễn ngày càng tăng, góp phần củng cố quốc phòng - an ninh (QPAN), bảo vệ Tổ quốc. ![]() Sử dụng thiết bị hiện đại đo kiểm vật tư đầu vào phục vụ sản xuất ở Nhà máy Z131. Ảnh: HỒNG MINH Tuy nhiên, nhiệm vụ xây dựng, phát triển tiềm lực KHCN quân sự cũng còn có mặt chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn, chưa tạo được nhiều sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao đưa vào trang bị cho Quân đội. Cơ sở hạ tầng, trình độ của một số tổ chức KHCN trong Quân đội còn hạn chế so với mặt bằng chung. Đội ngũ cán bộ KHCN tuy có tăng về số lượng, song chất lượng chưa đồng đều, còn thiếu chuyên gia đầu ngành, nhất là trong lĩnh vực thiết kế, chế tạo VKTBKT. Tình trạng khép kín, thiếu liên kết trong thực hiện các nhiệm vụ KHCN quân sự chậm được khắc phục... Trước bối cảnh quốc tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường và tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; từ yêu cầu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại cũng như đòi hỏi của sự nghiệp tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa đặt ra nhiệm vụ phải xây dựng, phát triển tiềm lực KHCN trong Quân đội vững mạnh. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nêu trên, cần quán triệt, thực hiện tốt một số nội dung sau: Một là, tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả các văn bản, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, QUTW, Bộ Quốc phòng về công tác KHCN. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu giúp công tác KHCN trong Quân đội luôn đi đúng hướng, đạt hiệu quả thiết thực. Vì vậy, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân phải tiếp tục cụ thể hóa vào nghị quyết, chương trình, kế hoạch công tác KHCN hằng năm; đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với hoạt động KHCN. Nghiên cứu xây dựng, thực hiện chiến lược chuyên ngành về phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo trong Quân đội nhằm cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chiến lược, kế hoạch, hành động xây dựng Quân đội hùng mạnh đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng, phát triển toàn diện tiềm lực KHCN trong Quân đội. Xây dựng tiềm lực KHCN trong Quân đội cả về tổ chức, bộ máy, nguồn nhân lực, trình độ phát triển khoa học; cơ sở vật chất, các nguồn lực phục vụ cho công tác nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng KHCN vào lĩnh vực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Kiện toàn, sắp xếp tổ chức, biên chế, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ hệ thống tổ chức KHCN toàn quân theo hướng tinh, gọn, mạnh, chuyên sâu, hiện đại với lộ trình phù hợp Chiến lược phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo của quốc gia. Đẩy mạnh hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp quân đội, trong đó chú trọng định hướng nghiên cứu, phát triển công nghệ lưỡng dụng, hiện đại. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước tham gia phát triển KHCN quân sự. Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ KHCN toàn quân theo phương châm tinh thông, đồng bộ, chuyên sâu, chất lượng cao. Kết hợp đào tạo tại nhà trường với đào tạo tại các cơ sở nghiên cứu KHCN; giữa đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài; gắn với tiến trình chuyển đổi số, xây dựng "công dân số", "quân nhân thời đại 4.0". Chú trọng phát triển các tổ chức KHCN chất lượng cao, nhóm nghiên cứu mạnh, các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành làm mũi nhọn lôi cuốn, dẫn dắt, thúc đẩy hoạt động KHCN ở từng cơ quan, đơn vị cũng như toàn quân. Tăng cường ngân sách cho nghiên cứu, phát triển KHCN trong Quân đội. Đầu tư quy hoạch, xây dựng, sắp xếp hệ thống các phòng thí nghiệm, thực nghiệm, các trạm quan trắc, xưởng chế thử và trường thử nghiệm hợp lý; đồng thời, đầu tư xây dựng một số phòng thí nghiệm hiện đại, đa năng phục vụ cho hướng nghiên cứu ưu tiên. ![]() Giờ thực hành ở Trung tâm mô phỏng tàu hộ vệ tên lửa của Hải quân nhân dân Việt Nam. Ảnh: CTV Ba là, đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực KHCN phục vụ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Một trong những yêu cầu, định hướng quan trọng của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là phải chủ động phát hiện, ngăn ngừa, triệt tiêu các nguy cơ dẫn đến bất ổn xã hội, xung đột, chiến tranh; nỗ lực tìm giải pháp hữu hiệu giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước hùng cường. Do vậy, KHCN trong Quân đội phải hướng nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển KHCN vào các vấn đề trên. Chiến lược chuyên ngành về phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo trong Quân đội cần xác định lộ trình phù hợp để phát triển toàn diện, đồng bộ cả khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự, khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự, khoa học hậu cần quân sự. Trong đó, khoa học xã hội, nhân văn quân sự tập trung nghiên cứu, phát triển lý luận về cơ chế, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với nhiệm vụ QPAN; phát huy vai trò khoa học lý luận chính trị trong đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng, chống lại sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Khoa học kỹ thuật, công nghệ quân sự tập trung nghiên cứu phát triển các công nghệ mới, sản xuất VKTBKT tiên tiến, hiện đại, thông minh; tìm kiếm, phát hiện các nguy cơ, lỗ hổng về kỹ thuật, công nghệ quân sự, công nghệ do thám, mã thám để có giải pháp kỹ thuật và công nghệ hiện đại chế ngự, khắc phục. Khoa học hậu cần quân sự cần chú trọng phát triển lý luận khoa học về công tác bảo đảm hậu cần cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; gắn xây dựng tiềm lực với thế trận, lực lượng hậu cần, đáp ứng yêu cầu hoạt động của Quân đội hiện đại. Bốn là, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật tạo hành lang pháp lý đẩy mạnh xây dựng tiềm lực KHCN trong Quân đội. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, chuẩn bị sức mạnh đất nước từ thời bình để tạo sự chủ động ứng phó với mọi tình huống QPAN cả hiện tại và tương lai. Trong đó, có những vấn đề mới chưa hiện hữu, chưa rõ ràng, nên rất khó khăn, phức tạp cho nghiên cứu, đánh giá, dự báo cũng như đề ra các chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp về QPAN. Do vậy, đòi hỏi phải thường xuyên bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật phát triển tiềm lực KHCN trong Quân đội. Theo đó, cần đổi mới phương thức quản lý xây dựng, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật về phát triển tiềm lực KHCN trong Quân đội bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ, thống nhất và có tính kế thừa các văn bản quốc gia, phù hợp với đặc thù của Quân đội cũng như hoạt động quân sự, quốc phòng những năm tới. Đồng thời, sớm hoàn thiện Chiến lược chuyên ngành về công tác KHCN trong Quân đội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 làm cơ sở xác định mục tiêu, lộ trình, bước đi phù hợp cho từng giai đoạn, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội hiện đại. Chú trọng tham mưu, đề xuất, triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu, thành tựu KHCN vào thực tiễn hoạt động Quân đội. Đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu về KHCN và các nền tảng số thông minh, đồng bộ phục vụ lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động KHCN trong Quân đội. Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế về KHCN quân sự, quốc phòng. Mở rộng hợp tác quốc tế là một trong những định hướng xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Đối với lĩnh vực KHCN, cần ưu tiên hợp tác với các nước có tiềm lực quân sự, quốc phòng mạnh, hoặc có thế mạnh trên các lĩnh vực mà ta có nhu cầu để phát triển tiềm lực KHCN trong nước. Bên cạnh đó, có định hướng, cơ chế, quy chế phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương để gắn kết hoạt động phát triển KHCN trong Quân đội với phát triển kinh tế - xã hội, khai thác hiệu quả nguồn lực KHCN cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Tiềm lực KHCN có vai trò hết sức quan trọng đối với nhiệm vụ củng cố quốc phòng, xây dựng Quân đội hiện đại. Do vậy, cần quán triệt, nắm vững các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội; đồng thời, thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp nhằm xây dựng tiềm lực KHCN quân sự mạnh, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đại tá LÊ VĂN HƯỞNG Viện Chiến lược quốc phòng |