CNQP&KT - Xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng (CNQP) đang là vấn đề có tính thời sự. Trên cơ sở phân tích thực tiễn hoạt động CNQP của một số quốc gia trên thế giới, bài viết cung cấp một góc nhìn về khái niệm và mô hình tổ hợp CNQP.

TỔ HỢP CNQP TRÊN THẾ GIỚI

Khái niệm về tổ hợp công nghiệp - quân sự (Military - industrial complex) được nhà xã hội học người Mỹ Charles Wright Mills đưa ra vào năm 1956, mô tả sự hợp tác và quan hệ giữa các chính trị gia, quan chức quân sự và ngành CNQP. Trên thực tế, các thành phần chính tạo nên hoạt động CNQP của các nước, gồm: bộ phận về quốc phòng thuộc cơ quan lập pháp; cơ quan quản lý các hoạt động chính của CNQP tại cơ quan hành pháp; các cơ sở CNQP; các chính sách của quốc gia về CNQP. Trong cơ quan lập pháp (Quốc hội) của các nước đa số đều có bộ phận kiểu ủy ban về các vấn đề quốc phòng, an ninh, trong đó có công tác về CNQP, như: Ủy ban Quân vụ Hạ viện Mỹ, Ủy ban Quốc phòng và Đối ngoại Quốc hội Israel, Ủy ban Quốc phòng Quốc hội Ấn Độ… Cơ quan quản lý nhà nước về CNQP là bộ phận thuộc cơ quan hành pháp (Chính phủ) quản lý ngành CNQP. Một số nước như Mỹ, Anh, Đức… không có cơ quan chuyên trách thuộc Chính phủ quản lý ngành CNQP, mà được phân chia cho các bộ thuộc Chính phủ và vận hành theo các đạo luật. Một số nước có cơ quan kiểu ủy ban hoặc hội đồng do Tổng thống hoặc Thủ tướng đứng đầu để chỉ đạo về công tác CNQP, như: Ủy ban CNQP Liên bang Nga, Ủy ban điều hành CNQP Thổ Nhĩ Kỳ, Ủy ban chính sách CNQP Indonesia do Tổng thống làm chủ tịch; Hội đồng CNQP thuộc Chính phủ Malaysia, Ủy ban phát triển CNQP quốc gia Thái Lan… do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm chủ tịch. Phần lớn các nước đều có cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về CNQP trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ Quốc phòng, như: Cơ quan Hợp tác về kỹ thuật quân sự thuộc Chính phủ Liên bang Nga; Cục Công nghiệp chiến lược thuộc Chính phủ Indonesia; Cơ quan Nghiên cứu và Phát triển CNQP thuộc Chính phủ Philippines; Tổng cục Trang bị thuộc Bộ Quốc phòng Pháp; Tổng cục CNQP thuộc Bộ Quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ; Cục Mua sắm và sản xuất thuộc Bộ Quốc phòng Israel; Văn phòng Công nghệ và Tài nguyên (DTRO) thuộc Bộ Quốc phòng Singapore; Cục Nội vụ thuộc Bộ Quốc phòng Nhật Bản; Cục Quản lý CNQP thuộc Bộ Quốc phòng Ấn Độ; Trung tâm CNQP và Năng lượng thuộc Bộ Quốc phòng Thái Lan; Phòng CNQP thuộc Bộ Quốc phòng Malaysia. Riêng Trung Quốc có Cục Quản lý khoa học - công nghệ thuộc Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin, còn Hàn Quốc giao một số chức năng quản lý nhà nước cho Hiệp hội CNQP.

Hầu hết các nước đều có cơ quan chuyên trách thuộc Bộ Quốc phòng thực hiện việc đặt hàng sản xuất quốc phòng, như: Cơ quan quản lý hợp đồng quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ; Cục Phát triển trang bị thuộc Bộ Quốc phòng Trung Quốc; Cơ quan Mua sắm và Sản xuất thuộc Bộ Quốc phòng Israel; Tổng cục Trang bị thuộc Bộ Quốc phòng Pháp; Tổng cục CNQP thuộc Bộ Quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ; Cơ quan Mua sắm, Công nghệ và Hậu cần (ATLA) thuộc Bộ Quốc phòng Nhật Bản; Cơ quan Quản lý chương trình mua sắm quốc phòng (DAPA) thuộc Bộ Quốc phòng Hàn Quốc; Văn phòng khoa học và công nghệ quốc phòng (DSTA) thuộc Bộ Quốc phòng Singapore; Cơ quan Mua sắm vũ khí trang bị thuộc Bộ Quốc phòng Philippines.


Xưởng sản xuất vũ khí, trang bị hiện đại của Tập đoàn Raytheon (Mỹ). Ảnh: Internet

Trong khi đó, nhiều nước có cơ quan chuyên trách về nghiên cứu phát triển vũ khí, trang bị, như: Cục Quản lý các dự án nghiên cứu quốc phòng tiên tiến thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ; Cục Nghiên cứu và Phát triển quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng Israel; Viện Công nghệ quốc phòng (DTI) thuộc Bộ Quốc phòng Thái Lan; Cục Kế hoạch và Nghiên cứu cấp cao Bộ Quốc phòng Nhật Bản; Cơ quan Nghiên cứu phát triển CNQP (ADD) thuộc Bộ Quốc phòng Hàn Quốc; Cơ quan Nghiên cứu phát triển quốc phòng (DRDO) thuộc Bộ Quốc phòng Ấn Độ. Một số nước giao nhiệm vụ quản lý công tác nghiên cứu và phát triển vũ khí, trang bị cho cơ quan quản lý nhà nước về CNQP, như: Liên bang Nga, Trung Quốc, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, Singapore…

Các thành phần chính tạo nên hoạt động CNQP của các nước, gồm: bộ phận về quốc phòng thuộc cơ quan lập pháp; cơ quan quản lý các hoạt động chính của CNQP tại cơ quan hành pháp; các cơ sở CNQP và chính sách của quốc gia về CNQP.

Đối với cơ sở CNQP gồm các tập đoàn, công ty, nhà máy, viện nghiên cứu, trường đại học… có thể chia thành 3 nhóm theo hình thức sở hữu. Nhóm thứ nhất là các quốc gia có cơ sở CNQP thuộc sở hữu tư nhân chiếm đại đa số, gồm: Hoa Kỳ (38.000 công ty, 115 viện nghiên cứu), Nhật Bản (1.500 công ty), Hàn Quốc (150 tập đoàn, công ty)… Nhóm thứ 2 là các nước có các tập đoàn, công ty CNQP 100% vốn nhà nước hoặc do nhà nước chi phối, gồm Liên bang Nga (khoảng 1.200 công ty và phần lớn thuộc Tập đoàn ROSTEX), Trung Quốc (10 tập đoàn, 5 trường đại học, 2 viện nghiên cứu), Ấn Độ (150 tập đoàn, công ty, 52 phòng thí nghiệm, 70 viện nghiên cứu, 50 trung tâm khoa học quốc gia)… Nhóm cuối cùng là các nước có cổ phần nhà nước chi phối tại một số doanh nghiệp CNQP, như: Israel, Pháp, Singapore, Indonesia, Malaysia, Thái Lan… Trên thực tế, hình thức sở hữu các cơ sở CNQP bị chi phối bởi chiến lược quốc phòng quốc gia. Theo đó, với các nước đế quốc, các cơ sở CNQP thuộc sở hữu tư nhân vì chiến tranh thường xảy ra ngoài biên giới và các cơ sở CNQP không bị ảnh hưởng, thậm chí đơn hàng quốc phòng còn tăng cao hơn. Còn đối với các nước theo đuổi chiến lược phòng thủ quốc gia, vẫn giữ các cơ sở CNQP quan trọng thuộc sở hữu nhà nước để khi chiến tranh xảy ra vẫn duy trì được hoạt động CNQP.


Hệ thống phòng thủ tên lửa Iron Drome do Tập đoàn Rafael (Israel) nghiên cứu chế tạo.    Ảnh: Internet

Về chính sách đối với hoạt động CNQP, nhiều nước miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, tăng tỷ suất lợi nhuận lên 8-10% giá thành, ưu đãi trong vay vốn đầu tư. Để phân loại các doanh nghiệp quốc phòng, một số nước dựa vào doanh thu quốc phòng hằng năm. Ví dụ, ở Mỹ nếu doanh thu quốc phòng trên 50% thì doanh nghiệp được xếp vào nhóm cơ sở CNQP nòng cốt; còn ở Nhật Bản, nếu công ty có doanh thu quốc phòng trên 10% thì được xếp vào nhóm công ty CNQP trọng điểm. Tùy vào nhóm xếp loại sẽ có các mức ưu đãi khác nhau, trong đó đầu tư phát triển công nghệ mới thường có ưu đãi lớn. Cục Quản lý CNQP Ấn Độ có ngân sách riêng để đầu tư khởi nghiệp cho các dự án phát triển công nghệ mới theo nhu cầu của ngành CNQP. Công ty thuộc sở hữu nhà nước hoặc tư nhân được Cục Quản lý CNQP Ấn Độ cấp ngân sách đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, hoàn chỉnh công nghệ và sau đó đưa vào danh sách quản lý; nếu muốn sử dụng công nghệ đó để sản xuất hoặc chuyển giao cho đối tác phải được cấp giấy phép. Với phương thức này, Ấn Độ đã huy động được các công ty có trình độ cao của cả nước để phục vụ CNQP. Phần lớn các nước có nền CNQP phát triển đều có các chương trình dài hạn 10-20 năm để phát triển vũ khí mới, bao gồm từ khâu nghiên cứu đến sản xuất loạt, với các giai đoạn: nghiên cứu thiết kế, chế thử, thử nghiệm, dùng thử và đặt hàng sản xuất…

Về cơ bản có 2 khái niệm và mô hình tổ hợp CNQP: Tổ hợp CNQP vĩ mô là tập hợp các thành tố tạo nên các hoạt động CNQP, tức là toàn bộ nền CNQP; tổ hợp CNQP vi mô là tập hợp các doanh nghiệp, tổ chức để sản xuất sản phẩm quốc phòng, trong đó có ít nhất một cơ sở CNQP nòng cốt.

MÔ HÌNH TỔ HỢP CNQP

Mô hình tổ hợp CNQP đã được các nhà khoa học, chuyên gia Việt Nam nghiên cứu từ 20 năm trước. Đến nay, tuy còn có ý kiến khác nhau, nhưng về cơ bản các nhà khoa học thống nhất có 2 khái niệm và mô hình tổ hợp CNQP, đó là: Tổ hợp CNQP vĩ mô là tập hợp các thành tố tạo nên các hoạt động CNQP, tức là toàn bộ nền CNQP và tổ hợp CNQP vi mô là tập hợp các doanh nghiệp, tổ chức để sản xuất sản phẩm quốc phòng, trong đó có ít nhất một cơ sở CNQP nòng cốt.

Đối với tổ hợp CNQP vĩ mô (tổ hợp CNQP quốc gia) là tập hợp các thành tố chính tạo nên các hoạt động CNQP, bao gồm: bộ phận về quốc phòng, an ninh thuộc cơ quan lập pháp, cùng các cơ chế chính sách của quốc gia về CNQP; cơ quan quản lý nhà nước về CNQP; cơ quan quản lý nghiên cứu phát triển vũ khí, trang bị quân sự; cơ quan đặt hàng sản xuất quốc phòng; các cơ sở CNQP. Bộ phận thuộc cơ quan lập pháp trong thành phần tổ hợp CNQP thông thường là một ủy ban về quốc phòng, an ninh thuộc cơ quan lập pháp (Quốc hội). Bộ phận thuộc cơ quan hành pháp quản lý 3 nhóm hoạt động chính của CNQP, gồm: quản lý nhà nước về CNQP, thực thi chính sách về CNQP và vai trò chủ sở hữu (với các cơ sở CNQP nhà nước có cổ phần chi phối hoặc 100% vốn nhà nước); đặt hàng sản xuất; triển khai kế hoạch nghiên cứu phát triển vũ khí, trang bị. Các cơ sở CNQP bao gồm các đơn vị CNQP nòng cốt thuộc Bộ Quốc phòng, các cơ sở động viên công nghiệp và các doanh nghiệp, tổ chức khác tham gia hoạt động CNQP. Cơ chế, chính sách đối với CNQP gồm chính sách đối với cơ sở CNQP thuộc sở hữu nhà nước hoặc nhà nước sở hữu chi phối (đầu tư phát triển, tổ chức, nhân sự, tài chính…); chính sách ưu đãi về thuế, vay vốn, tỷ suất lợi nhuận, hỗ trợ tài chính… đối với các cơ sở tham gia hoạt động CNQP; cơ chế đặc biệt lựa chọn nhà thầu cung cấp vật tư, bán thành phẩm trong sản xuất quốc phòng thời bình và thời chiến; cơ chế tài trợ, mua sắm vật tư đặc chủng, thuê chuyên gia trong nghiên cứu phát triển vũ khí, trang bị mới; cơ chế bảo mật, quản lý xuất, nhập khẩu công nghệ quân sự và xuất khẩu các sản phẩm quân sự… Còn tổ hợp CNQP vi mô (hay tổ hợp CNQP theo ngành nghề) thực chất là hệ sinh thái của một hoặc một nhóm công ty, tổng công ty là các cơ sở CNQP nòng cốt.


Tàu tấn công đổ bộ đa năng TCG Anadolu của Thổ Nhĩ Kỳ.   Ảnh: Internet

Thực tế luôn tồn tại các thành phần của tổ hợp CNQP quốc gia và tổ hợp CNQP. Do đó, việc luật hóa các khái niệm và mô hình là cần thiết để tạo ra sự đồng bộ trong xây dựng, phát triển nền CNQP và thiết lập các cơ chế, chính sách đặc thù để tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu, phát triển và sản xuất quốc phòng. Nếu trước đây nói đến xây dựng, phát triển CNQP chủ yếu tập trung vào việc xây dựng củng cố cơ quan quản lý nhà nước về CNQP và các cơ sở CNQP nòng cốt, thì ngày nay khi nói đến xây dựng tổ hợp CNQP quốc gia còn thêm việc xây dựng, củng cố các cơ quan quản lý nghiên cứu và phát triển vũ khí, trang bị, cơ quan đặt hàng sản xuất quốc phòng cùng các chiến lược, kế hoạch dài hạn, trung hạn và cơ chế chính sách đặc thù liên quan. Đồng thời, cần xây dựng, phát triển các cơ sở công nghiệp động viên và thu hút các doanh nghiệp, tổ chức khác tham gia hoạt động CNQP. Nếu xây dựng được các tổ hợp CNQP (như: tổ hợp công nghệ cao; tổ hợp công nghiệp vũ khí; tổ hợp công nghiệp đạn dược; tổ hợp công nghiệp đóng tàu quân sự) và có chính sách đặc thù, chắc chắn sẽ tạo ra sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các doanh nghiệp, tổ chức trong hệ sinh thái; nâng cao năng lực sản xuất sản phẩm quốc phòng trong thời bình và duy trì sản xuất trong thời chiến. 

Thiếu tướng, TS. ĐÀO XUÂN NGHIỆP

Nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp quốc phòng

Bình luận


Họ và tên:*

Đơn vị:     

Điện thoại:*               

Email:*                       

Nội dung: