CNQP&KT - Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp (CNQP, AN và ĐVCN) vừa được Quốc hội khóa XV thông qua là cơ sở pháp lý quan trọng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là trong chiến tranh hiện đại. Vấn đề là cần cụ thể hóa các quy định của Luật sao cho sát với thực tiễn và xu thế phát triển của CNQP thế giới nói chung và của nước ta nói riêng. CỐT LÕI VẪN LÀ TIỀM LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VÀ NĂNG LỰC SẢN XUẤT Vào năm thứ 3 của cuộc xung đột quân sự Nga - Ukraine, trong khi phương Tây khá lúng túng trong việc đảm bảo cung cấp vũ khí, đạn dược cho Ukraine do năng lực sản xuất hạn chế, thì theo crimea.ria.ru, Tập đoàn CNQP Rostec của Nga đã tăng năng lực sản xuất mới và sửa chữa xe tăng lên 3,5 lần, xe thiết giáp tăng 3 lần, pháo tự hành tăng 10 lần, pháo kéo 14 lần, súng cối tăng 20 lần, hỏa tiễn phóng loạt tăng 2 lần, đạn cho xe tăng tăng 9 lần, đạn pháo tăng 6 lần và đạn hỏa tiễn tăng 8 lần. Theo Rostec, hiện nay, tất cả các nhà máy của Tập đoàn đều làm việc 3 ca, cung cấp 80% vũ khí cho chiến dịch, bao gồm cả sản xuất hàng loạt các loại máy bay SU-57, SU-35C, SU-34, SU-30CM2, trực thăng chiến đấu, xe tăng T-90M Proryv và nhiều trang bị kỹ thuật khác. Trong khi phía Ukraine tập trung phát triển các loại máy bay không người lái (UAV), xuồng không người lái (USV) cho mục đích trinh sát, tấn công, phá hoại, thì theo hãng thông tấn RIA Novosti, phía Nga đã chế tạo mới khoảng 30 hệ thống robot đa năng có thể tham gia chiến đấu, tải thương, vận chuyển đạn dược hay là nền tảng để có thể triển khai nhiều loại vũ khí khác. Nhiều loại máy bay không người lái thế hệ mới có tầm bay xa hơn, mang được tải trọng lớn hơn, ít tiếng ồn hơn; hay các hệ thống di động phát hiện và tiêu diệt mục tiêu trên không, các hệ thống tác chiến điện tử, các trạm radar tích hợp vũ khí mới để chống máy bay không người lái tầm xa, các loại vũ khí thông minh như đạn pháo, hỏa tiễn, tên lửa có điều khiển... cũng được phát triển và đưa vào chiến đấu. Nhìn chung, năng lực sản xuất của tổ hợp CNQP Nga đã tăng 2,5 lần kể từ đầu xung đột. Điều này chứng tỏ năng lực sản xuất dự trữ của các tổ hợp CNQP Nga rất lớn, cùng với khả năng huy động các nhà máy công nghiệp quốc gia cùng tham gia sản xuất, gia công cho quốc phòng, kể cả bán thành phẩm hay thành phẩm. Trong cuộc xung đột này, nhiều loại vũ khí nhanh chóng được hoàn thiện, phát triển mới, nhưng cũng có không ít loại vũ khí dù rất đắt tiền song đã bộc lộ nhiều điểm yếu, mất tác dụng, phải rút ra khỏi cuộc chiến, nhất là khi Quân đội Nga đã khá thành công trong chiến lược chống lại các loại vũ khí chính xác công nghệ cao của phương Tây. Hoặc một số loại xe tăng, pháo tự hành của phương Tây không thích nghi với môi trường, khí hậu, quá nặng so với hệ thống hạ tầng giao thông hay bùn lầy, khó sửa chữa, chậm thay thế phụ tùng, yêu cầu hệ thống hậu cần kỹ thuật quá khắt khe, quy củ… cũng làm giảm hiệu suất, hiệu lực của vũ khí. CƠ HỘI MỚI CHO NGÀNH CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG Nhìn từ cuộc xung đột quân sự Nga - Ukraine nói riêng và sự phát triển CNQP trên thế giới nói chung, có thể thấy, Luật CNQP, AN và ĐVCN vừa được Quốc hội khóa XV thông qua là cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển tổ hợp CNQP, AN của nước ta đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là khi chiến tranh hiện đại chính là cuộc đối đầu sức mạnh khoa học, công nghệ (KHCN) của hai phía. Mà sức mạnh KHCN ở đây bao trùm hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế và đó cũng chính là tiềm lực kinh tế của đất nước. Vấn đề là cần cụ thể hóa các quy định của Luật sao cho sát với thực tiễn và xu thế phát triển của CNQP thế giới nói chung và của nước ta nói riêng. Đây là thực tế đặt ra, vì gần đây có một số luật đã ban hành nhưng việc triển khai thực hiện còn nhiều vướng mắc, khi thì do xung đột pháp luật, có khi do giải thích luật chưa rõ ràng, hướng dẫn thi hành thiếu cụ thể, xa rời thực tế… Sản xuất sản phẩm quốc phòng ở Nhà máy Z114. Ảnh: TUẤN LÂM Dưới đây là một số nội dung cần quan tâm khi xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật CNQP, AN và ĐVCN: Thứ nhất, ưu tiên bảo đảm ngân sách. Điều 6 của Luật CNQP, AN và ĐVCN quy định ưu tiên bảo đảm ngân sách cũng như có chính sách, cơ chế đặc thù để xây dựng, phát triển cơ sở CNQP, AN nòng cốt, tiên tiến, hiện đại, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu thiết kế với sản xuất, sửa chữa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh. Theo Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính, với quy mô của nền kinh tế Việt Nam tính đến đầu năm 2024 đạt khoảng 435 tỷ USD, đứng thứ 35 thế giới và huy động vào ngân sách nhà nước khoảng 1,7 triệu tỷ đồng trong tổng chi ngân sách nhà nước khoảng trên 2,1 triệu tỷ đồng nên có khả năng đầu tư cho CNQP, miễn là nguồn vốn được sử dụng hiệu quả và các hạng mục đầu tư có trong kế hoạch tài chính quốc gia, ngân sách nhà nước, kế hoạch đầu tư công mỗi giai đoạn 5 năm, 3 năm và hằng năm, được bố trí và phân bổ kịp thời.
Thứ hai, nguồn lực cho phát triển khoa học - công nghệ. Một chính sách mới quan trọng quy định trong Luật là phải ưu tiên nguồn lực cho phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực công CNQP, AN. Chính sách này cần được cụ thể hóa hơn nữa trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật dưới luật để có cơ sở thực hiện, nhất là đối với một số ngành KHCN ứng dụng, như: hàng không, vũ trụ, nguyên tử, vệ tinh, quang học, luyện kim, cơ khí chính xác, tự động hóa, robot hóa… hay các ngành khoa học cơ bản, như: toán, vật lý, hóa học, vật liệu… Các vấn đề liên quan, từ đào tạo nguồn nhân lực tới kinh phí xây dựng các trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, các xưởng thực nghiệm, sáng chế quốc gia… đều phải đặt trong một chiến lược dài hạn với các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, công trình, dự án cụ thể cho từng giai đoạn phát triển. Chúng ta đã có kinh nghiệm xây dựng và thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình hỗ trợ có mục tiêu hay việc để lại một phần thu ngân sách cho Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) nghiên cứu, phát triển công nghệ mới; nhất là việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ cao cần huy động nguồn lực rất lớn, cả về tài chính và nhân lực. Thứ ba, huy động nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính sách huy động tối đa nguồn lực của công nghiệp quốc gia, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển CNQP, AN và ĐVCN đã được quy định trong Luật. Song, Nhà nước và Bộ Quốc phòng nên có cơ chế, chính sách cụ thể hơn để huy động các nguồn lực trên cho quốc phòng, từ đất đai, tài chính, thuế, phí, lãi suất; chấp nhận chi phí nghiên cứu, thử nghiệm với tỷ lệ thành công thấp; chấp nhận chi phí đặc thù, vượt trội để thu hút nhân tài. Đó có thể là chính sách hoàn trả kinh phí đào tạo cho nguồn nhân lực chất lượng cao được thu hút vào làm việc trong các cơ sở CNQP, AN nòng cốt, hay trực tiếp hỗ trợ cho nhà khoa học, chuyên gia công nghệ theo những tiêu chuẩn vị trí việc làm, ngành nghề… trong một khung thời gian nhất định. Đây cũng là kinh nghiệm để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao mà các quốc gia khác trên thế giới đã áp dụng lâu nay.
Thứ tư, khuyến khích khu vực tư tham gia vào CNQP. Chính sách xây dựng và phát triển CNQP, AN theo hướng lưỡng dụng, gắn kết chặt chẽ, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia trên cơ sở khuyến khích, tạo điều kiện để cá nhân, doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia hoạt động CNQP, AN và ĐVCN là hết sức đúng đắn. Chúng ta có nhiều tập đoàn kinh tế có tiềm lực KHCN nhất định có thể tham gia vào lĩnh vực quốc phòng. Kinh nghiệm quốc tế đã cho thấy, các tập đoàn công nghệ tư nhân trong nhiều lĩnh vực, như: vũ trụ, hàng không, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất… từ rất lâu đã tham gia thực hiện các hợp đồng quốc phòng, được truyền thông rộng rãi, là niềm tự hào về thương hiệu, thị trường của doanh nghiệp. Việc Luật CNQP, AN và ĐVCN xác định ngành CNQP quốc gia bao gồm các cơ sở CNQP, AN nòng cốt, cơ sở CNQP khác và các cơ sở công nghiệp động viên thuộc mọi thành phần kinh tế đã mở rộng cửa cho các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển ngành CNQP, công nghiệp lưỡng dụng. Do vậy, cũng cần có những quy định hết sức cụ thể, chi tiết về xác định năng lực nhà thầu từ tài chính, sản xuất, công nghệ và tổ chức đấu thầu... để đảm bảo công khai, minh bạch và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Chúng ta đều tin tưởng Luật CNQP, AN và ĐVCN sẽ tạo ra bước đột phá trong xây dựng và phát triển ngành CNQP nước ta, bảo đảm đầy đủ các yếu tố từ tiềm lực công nghệ, năng lực sản xuất đến kinh nghiệm quản lý điều hành, sự kiên trì, quả cảm trong lao động sản xuất để tiếp nối truyền thống vẻ vang của ngành Quân giới - CNQP trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng và phát triển, sẵn sàng bảo vệ đất nước trong mọi tình huống. TS. TRẦN VĂN Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội khóa XIII |