Từ rừng thiêng biên giới12/04/2019CNQP&KT - Thu Lũm là xã biên giới xa nhất của huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Nơi đây, ngoài đồng bào dân tộc Hà Nhì (chiếm tỷ lệ khoảng 90% dân số), còn có đồng bào Dao, La Hủ và người Kinh đang sinh sống, công tác.
Ai lên Thu Lũm, nhìn từ trung tâm xã về bản chính sẽ luôn thấy một tán cây cổ thụ hàng nghìn năm tuổi, nhiều ngọn lớn tỏa tứ phía. Người Hà Nhì gọi nơi ấy là rừng thiêng, dù loài cây cỏ yếu mềm hay thân cổ thụ mục ruỗng cũng bất khả xâm phạm. ẤM NO NHỜ ĐẤT NÚI, CÂY RỪNG Cứ mỗi dịp đầu năm mới, tại rừng thiêng, dân bản làm lễ cúng trời cầu may và tạ ơn mẹ thiên nhiên ban mưa thuận, gió hòa giúp bản làng trù phú, ấm no... Đây được coi như nghi thức quan trọng nhất trong năm của người Hà Nhì, thực hiện đúng lúc mặt trời ló rạng và phụ nữ không được tham gia. Cũng như nhiều tín ngưỡng khác, giá trị tinh thần ấy tiếp thêm niềm tin để người dân nơi phên giậu Tổ quốc vững vàng đương đầu với những khó khăn, thử thách; sẵn sàng cùng bộ đội biên phòng bảo vệ từng tấc đất, tấc rừng.
Bộ đội Đồn Biên phòng Thu Lũm và dân quân đi tuần tra. Do đặc thù địa hình hiểm trở với đồi núi có độ dốc cao, giao thông đi lại khó khăn nên Thu Lũm từng là một trong những xã có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước. Tuy nhiên, với sự nỗ lực rất lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân cùng sự quan tâm của trên, hiện nay, địa phương đã trở thành một thị tứ khá sầm uất giữa vùng biên ải xa xôi. Thay vì chỉ biết trồng ngô, sắn trên nương rẫy, nay bà con đã trồng nhiều loại cây dược liệu, cây công nghiệp; mở rộng sản xuất để phát triển kinh tế. Ông Phùng Lòng Cà, Chủ tịch UBND xã Thu Lũm hồ hởi giới thiệu, bản chính của xã toàn người Hà Nhì sống quần tụ trong những ngôi nhà trình tường sát nhau, kiến trúc truyền thống. Mỗi nhà dân được nối nhau bằng đường dốc và tường đá. Con đường đất ngày nắng bụi bặm, ngày mưa sình lầy giờ được đổ bê tông rất khang trang, sạch đẹp. Tường đá thì vẫn y nguyên, hiện hữu cho sự cần mẫn của bà con qua nhiều năm tháng lên núi nhặt đá dăm về xếp đặt không gian sống, trang trí thêm cho những mảnh vườn hoa màu, dược liệu.
Bộ đội biên phòng gặt lúa giúp dân. Thiếu tá Nguyễn Ngọc Dung, Phó đồn trưởng Đồn Biên phòng Thu Lũm cùng tổ công tác đưa chúng tôi lên đỉnh núi Pa Thắng để tận mắt chiêm ngưỡng tảng đá trắng huyền thoại được bà con coi như một vị thần trấn ải. Giữa đỉnh đồi hoang vắng nổi lên khối đá cao chừng mét rưỡi, hình dáng người đàn ông trầm tư, tọa vững chãi trên chân đế rộng hướng về phía dòng suối chảy róc rách dưới chân đồi. Đồng bào truyền miệng nhiều câu chuyện ly kỳ về tảng đá. Chuyện rằng, thuở di cư, dân chọn lập bản dưới chân tảng đá hình vị thần để được che chở. Lại có tích kể về đôi vợ chồng chạy lạc, người vợ quay lại tìm chiếc khăn đánh rơi mà người dân tộc mình quan niệm đó như hồn vía không thể mất. Lúc quay về, người chồng chờ vợ trong thiên tai, biến động đã hóa đá cùng đứa con. Bây giờ, những người già ở Thu Lũm vẫn hát câu ca được lưu truyền khi ai đó gợi nhớ câu chuyện nhuốm màu huyền tích: “Em hóa con bướm bay đến với anh/Em đừng hóa con bướm cánh đen, viền xanh, vằn tím, đốm vàng/Nó là con bướm không lành…”.
Thiên nhiên hùng vĩ, nên thơ. Hỏi chuyện, người Hà Nhì không chỉ tôn thờ tảng đá trắng trên đỉnh núi Pa Thắng mà ở nhiều vùng đất khác, họ luôn có tục thờ đá với nghi thức tín ngưỡng gọi là Thổ Ty nhằm cầu mong ấm no, an cư lạc nghiệp. Thu Lũm có ruộng bậc thang đẹp, khí hậu biến đổi đầy sinh động, phong tục tập quán độc đáo, bản làng và rừng còn giữ được nét nguyên sơ với bao câu chuyện hơi hướng ly kỳ, huyền ảo… Xa hơn, ngoài bản chính, xã còn có các bản làng xinh đẹp khác như: Gò Khà, Pa Thắng, Ló Na, U Ma Tù Khòng, Là Si, Á Chè… có hang động, ruộng bậc thang, sông suối; bảo tồn được các làn điệu dân ca, xòe và múa. RÍU RAN CHUYỆN LÍNH… “Trên này chỉ có hai mùa, mùa mưa và mùa sương, nhà báo ạ! Mùa mưa trời đất xầm xì không ngớt, mùa còn lại, không thể gọi mùa khô, sương cứ mịt mùng từ sáng đến tối, ẩm sâu hơn cả mưa. Non trưa rạng được tí chút, chẳng đáng gì. Nếu chị kéo khăn chậm tay chút nữa, sương sẽ ướt đẫm hết tóc”, Đại úy Sùng A Chớ thuyết minh về khí hậu biên thùy khi thấy tôi lúng túng kéo chiếc khăn từ cổ trùm kín đầu. Hôm ấy, chúng tôi may mắn được đi cùng cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Thu Lũm lên thăm trạm kiểm soát biên giới. Thường tháng một lần, anh em đồng đội dưới đồn, trên trạm sẽ ăn chung bữa cơm. Không chỉ có bộ đội mà bà con đồng bào, giáo viên, cán bộ ghé chợ chơi, gặp bữa vẫn ăn cùng. Gần trưa, bếp được nhóm lên, sương càng mờ mịt. Bếp chỉ một người nấu, còn lại từ chỉ huy đến chiến sĩ, khách khứa đều ngồi trên những chiếc ghế gỗ con con, giống ngày ở quê chúng ta vừa ngồi đợi bà hoặc mẹ thổi cơm, vừa vùi khoai sắn và nhặt từng hạt thóc sót trong rơm nếp nổ lép bép thành bỏng trắng tựa hoa ngâu.
Ruộng bậc thang ở Thu Lũm. “Rửa thêm tí rau thơm đi”, “Nấm chừng này chưa đủ”, “Tiện tay nướng luôn vài quả ớt, nhớ để lại chút ớt tươi”… Đến giờ khắc ấy, tôi cam đoan rằng mình chưa từng dự một bếp ăn nào nồng nã, sinh động thế. Có cá, có gà, có vô số rau củ quả, đến những quả ớt bóng bẩy nửa xanh nửa đỏ cũng được chế biến nhiều cách: Quả nướng trên than hồng, quả cắt xéo thả mắm nguyên chất, quả dầm nát quyện muối trắng, tiêu đen... Khung cảnh ấy trái ngược hoàn toàn phòng khách đẫm sương, bốn bề tường mốc meo loang lổ. Hóa ra, dù ta ở thôn quê, thành thị hay lên đồn biên phòng vùng biên ải, để chạm vào nỗi ấm nồng, chân thật, chỉ cần tìm căn bếp. Chúng tôi là khách nên nhận được sự chăm lo, ưu ái đặc biệt. Mọi người xích ra nhường chỗ, hỏi han có quen ăn món này, món kia không. Ngoại trừ tôi, bốn cô còn lại chưa chồng. Hai cô cán bộ văn hóa từ xuôi lên nhận công tác, hai cô giáo tỉnh bên về. Má căng, môi thắm, mắt nồng... Sau bữa cơm ấm cúng trên trạm, chúng tôi bịn rịn trở về đồn, hướng mắt ra khoảnh sân rộng rãi. Bốn bề cây rừng xanh um, cây ở đồn lại ngả sắc vàng úa dù được chăm sóc tốt. Hỏi ra, đó toàn cây từ xuôi đưa lên, có cây đến vài năm vẫn chưa thể thích nghi mưa nắng biên thùy. Trái ngược khung cảnh ấy là hàng đào thẳng băng đang bật lá xanh, hoa thắm từ thân cây cằn cỗi mốc thếch địa y. “Những cây sanh, si, cau vua, lộc vừng… đều do khách thăm đồn biếu tặng. Ai mới về đồn nhận công tác hoặc chuyển đi cũng trồng một cây”, Phó Đồn trưởng Nguyễn Ngọc Dung giới thiệu với khách. “Hoa đào đẹp quá. Nhiều người quen gọi là đào đá, cũng năm cánh nhưng khác hẳn loại đào màu hồng ửng, cánh mỡ màng dưới xuôi. Đào rừng hoang dại, se sắt như trổ ra từ đá núi”, khách cũng vui vẻ góp chuyện. “Các anh chị có thích không, bộ đội tặng cả mấy gốc đào này về xuôi chơi Tết? Em nói thật mà, cây thì trồng lại được, nhưng người về rồi khó lên đây lắm! Cứ nhìn mắt nhau thì biết thôi…”. Câu nói pha niềm tiếc nuối của chàng lính trẻ người Mông Sùng A Chớ khiến mọi người cay mắt.
Thiếu nữ Hà Nhì trong điệu múa mừng xuân. Lại cùng nhau bước trên con đường quanh co dốc, chúng tôi dừng chân tại mỏm núi vắng hiu, mặc mây chiều từ lòng thung lũng cuồn cuộn dâng ngập dấu giày. Phút chốc, người hòa vào núi, núi đổ bóng người. Rồi những tiếng cười rúc rích, tươi trẻ vang lên. Là cô giáo Vân, cô giáo Mớ và hai cán bộ văn hóa vừa ăn cơm cùng nhau trên đồn. Vân nháy mắt rất tinh nghịch, vài đốm tàn nhang trên gò má nhấp nháy theo: “Ban nãy trên trạm, mấy chú bộ đội kể, chị còn là nhà thơ, chị đọc thơ đi”. “Người có thể lạc nhau/Nhưng đất là máu xương, nước mắt/Người có thể hận thù, hờn trách/Nhưng rừng đầy bao dung/Em cứ mở lòng mình rồi sẽ thấy/Cánh hoa bay tự biết lối về/Chái nhà vẫn tiếng chim gù quẩn mùi khói bếp/Em có là ai vẫn khôn nguôi hờn tiếc/Vẫn nhìn trẻ nhỏ khóc cười biêng biếc ngày sau…”. Bài và ảnh: LỮ MAI
|