Ở nơi cuối trời Tổ quốc24/12/2018CNQP&KT - Đã hơn một lần được nghe kể về chuyện những người lính Cục Hậu cần Quân khu 9 cùng chung sức với bà con nông dân trồng đước, nuôi tôm ở vùng ngập mặn nơi mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nhưng mới đây tôi mới có dịp “thực mục sở thị”.
Chuyến đi để lại nhiều cảm xúc đáng nhớ về tình người, tình đất nơi đây. Biết tôi có ý định đến Nông trường 414 (Quân khu 9), trong bữa cơm tối trước ngày lên đường, Đại tá Nguyễn Văn Hiếu, Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu 9, tâm sự: “Dạo này bận quá không xuống thăm hỏi, động viên anh em và bà con dưới đó được. Nhờ chú cho tôi gửi lời thăm hỏi đến mọi người, Tết này tôi sẽ cố gắng xuống thăm. Mà này, bà con dưới đó thật thà, làm ăn chân chất; giọng ca thì mùi mẫn, uống rượu cũng nhiệt tình lắm đó”.
Cán bộ, công nhân Nông trường tuần tra bảo vệ rừng đước. Sớm hôm sau, xe của Quân khu 9 chở đoàn chúng tôi trực chỉ hướng Cà Mau, nơi đóng quân của Nông trường 414. Thời tiết khá đẹp, gió thổi nhẹ và nắng trải vàng trên đường. Đúng là vùng đồng bằng sông nước Cửu Long, hai bên đường là những cánh đồng lúa rộng bát ngát, thẳng cánh cò bay; những kênh rạch chằng chịt và vườn cây trái sum suê... Sau hơn 5 giờ đồng hồ, khi đến bến đò Năm Căn, chúng tôi đã thấy Thượng tá Võ Tư Thoan - Giám đốc Nông trường ở đó chờ đón. Sau lời giới thiệu ngắn gọn, anh Thoan đưa chúng tôi xuống chiếc ca nô mới được Ban Công đoàn Quốc phòng tặng. Tài công điều khiển ca nô xuôi theo dòng sông cửa Lớn, rồi rẽ vào mấy dòng kênh nhỏ. Lần đầu tiên trong đời, tôi tận mắt nhìn thấy những cây đước to, cao đến thế, hàng rễ chùm như chiếc chổi sể, đen nhánh nhô lên khỏi mặt nước. Chưa đầy 20 phút, ca nô cập bến. Trên bờ, cán bộ, công nhân Nông trường đã chờ sẵn trợ giúp chúng tôi lên bờ. Dẫn đoàn đi tham quan Nông trường bộ, Giám đốc Thoan giới thiệu: Nông trường được thành lập năm 1982, đứng chân trên địa bàn 2 xã Tân An Tây và Tam Giang Tây (huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau), có nhiệm vụ cải tạo môi trường sinh thái để phát triển nghề nuôi trồng thủy sản, kết hợp trồng và bảo vệ rừng theo hướng chuyên canh lâm - ngư nghiệp, giữ đất, giữ dân, góp phần xây dựng vững chắc khu vực phòng thủ tuyến ven biển. Nghe những cán bộ ngày đầu tiên phong đi “mở đất” kể lại, chúng tôi cũng chỉ mường tượng ra một phần của sự gian truân, vất vả ngày ấy. Ở nơi heo hút, dân cư thưa thớt, điện, đường, trường, trạm, sóng truyền hình, viễn thông, nước ngọt, chợ...cái gì cũng không! Ngay cả vỏ lãi (thuyền), phương tiện duy nhất để đi lại ở vùng sông nước này cũng hiếm. Chỉ có trăn, rắn, heo rừng, ong vò vẽ, muỗi, bò cạp, chim, cua, cá… là nhiều. Đêm đến nằm nghe tiếng thú rừng hú gọi bạn tình, mà buồn nẫu ruột gan, có người đã có ý định bỏ về. Với sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy Quân khu và Cục Hậu cần Quân khu, những người lính từng trải qua năm tháng cầm súng nơi trận mạc đã quyết tâm vượt khó, làm cho vùng đất này dần thay da, đổi thịt. Bộ đội, người dân tích lũy được nhiều kinh nghiệm từ thực tế, hiểu thiên nhiên, làm ăn khấm khá dần. Cứ thế, đời sống khởi sắc từng ngày. Cùng với sự quan tâm đầu tư của Trung ương, cấp ủy, chính quyền địa phương và Bộ Tư lệnh Quân khu 9, hệ thống cơ sở hạ tầng của địa phương cũng như của Nông trường được cải thiện đáng kể. Việc sản xuất, nuôi trồng của Nông trường 414 ngày càng ổn định, lợi nhuận hằng năm từ rừng đước và nuôi trồng thủy sản đều vượt chỉ tiêu được giao. Hiện nay, Nông trường quản lý 2.058 ha đất quốc phòng, trong đó gần 1.000 ha rừng đước ngập mặn nằm trong vùng bán đảo Cà Mau. Để chăm sóc và tham gia bảo vệ rừng, hằng năm, Nông trường ký hợp đồng với các hộ dân có nhu cầu và hỗ trợ thêm 100.000 đồng/ha rừng và 300.000 đồng/ha nuôi tôm để họ mua con giống, cải tạo mặt nước, vuông tôm. Chính chủ trương đúng đắn này đã thu hút hàng trăm hộ dân từ các vùng lân cận về đây lập nghiệp. Năm 2018, Nông trường có 205 hộ dân ký hợp đồng nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng kết hợp nuôi tôm; hộ cao nhất là trên 20 ha, thấp nhất cũng gần 1 ha… Những cán bộ, công nhân viên Nông trường cũng được tạo điều kiện để phát triển kinh tế gia đình bằng chủ trương giao khoán và hỗ trợ về vốn. Đến nay, hơn một nửa cán bộ, công nhân Nông trường đã đưa vợ con vào làm ăn, sinh sống. Đúng là “đất lành chim đậu”, “an cư lạc nghiệp” quả không sai!
Niềm vui sau thu hoạch tôm. Tiếp chúng tôi tại Nông trường, còn có cả đại diện ủy ban nhân dân, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên, hội phụ nữ xã Tân An Tây và một số nông trường viên. Bữa cơm tối đãi khách toàn là đặc sản do chính bàn tay lao động của cán bộ, công nhân làm ra. Nào là cua gạch to bằng bát ăn cơm, tôm sú bằng nửa cổ tay và món lẩu cá lóc, cá kèo… Vừa ăn, tôi vừa tranh thủ trò chuyện với Phó Chủ tịch UBND xã Lê Tuấn Bạc. Anh tâm sự: “Nhờ có Nông trường 414 mà đời sống nhân dân trong xã ngày càng cải thiện. Không chỉ tạo điều kiện cho người dân phát triển kinh tế, Nông trường còn hỗ trợ điện, nước sinh hoạt, chăm sóc sức khỏe và đầu tư kinh phí xây dựng một trường tiểu học 5 gian, giúp gần 100 con em cán bộ, công nhân Nông trường và nhân dân trong xã có điều kiện được đi học. Ngoài ra, Nông trường còn tích cực ủng hộ quỹ “Vì người nghèo”, “Đền ơn đáp nghĩa”, tặng quà gia đình chính sách, thương binh, thân nhân liệt sĩ, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, hỗ trợ kinh phí xây trụ sở ấp; tổ chức các buổi giao lưu văn nghệ, thể thao giữa các tổ chức quần chúng… tạo nên mối đoàn kết quân dân càng thêm gắn bó…”. Trò chuyện cùng chúng tôi, bác Nguyễn Việt Thu, nông trường viên đội 4, một trong những hộ dân có thời gian bám trụ tại đây khá lâu, cho biết: “Ngay từ khi Nông trường có chủ trương giao khoán rừng cho dân, tôi đã nhận chăm sóc 8 ha rừng kết hợp nuôi tôm sú. Lúc đến đây, tôi chỉ có hai bàn tay trắng, anh em Nông trường đã giúp đỡ tận tình cả về con giống cũng như kỹ thuật nuôi tôm. Nuôi trồng thủy sản ở đây khá nhàn.Mua giống về thả vào vuông; tôm, cua phát triển tự nhiên, không phải tốn tiền thức ăn.Định kỳ, kỹ sư Nông trường xuống kiểm tra chất lượng nước và chữa bệnh cho tôm, cua.Đến thời điểm thu hoạch thì xả nước, bắt tôm”. Với thu nhập bình quân mỗi năm trên dưới 120 triệu đồng, đời sống của gia đình bác Thu cũng khấm khá, có điều kiện mua sắm đầy đủ tiện nghi. Nghe câu chuyện giữa tôi với bác Thu, chị Nguyễn Thị Tỷ, nông trường viên đội 1 cũng quay sang góp vui: “Năm rồi, gia đình tôi cũng thu gần 110 triệu. Cứ đà này, chẳng mấy chốc mà giàu…”. Nét đặc trưng ở vùng sông nước miền Tây là ăn uống phải có giao lưu văn nghệ, nhất là đờn ca mới vui. Càng về khuya, không khí văn nghệ càng tưng bừng, làm chộn rộn cả một vùng sông nước. Ai cũng tranh thủ góp vui vài bài. Nhưng ấn tượng nhất là giọng ca da diết, ngọt ngào của Hồng Thắm - Chủ tịch Hội phụ nữ xã Tân An Tây: “Nghe nói Cà Mau xa lắm/Ở cuối cùng bản đồ Việt Nam/Ngại chi đường xa không tới/Về để nói với nhau mấy lời…”. Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn. Chúng tôi chia tay nhau bịn rịn, luyến lưu. Tạm biệt cán bộ, nhân viên Nông trường 414, tôi cảm nhận được hơi ấm và sức sống mãnh liệt trong đôi bàn tay chai sạn của mỗi người. Tình đất, tình người nơi đây chân thật và ấm áp biết bao. Tôi tự nhủ, một ngày nào đó sẽ trở lại Cà Mau, về với những người lính hậu cần và bà con nơi cuối trời Tổ quốc. Ghi chép của HỒNG QUANG
|