CNQP&KT - Là viện nghiên cứu được thành lập sau khi Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, trong suốt hành trình 75 năm xây dựng, trưởng thành, Viện Vũ khí đã có những đóng góp quan trọng vào thành tựu nghiên cứu thiết kế, chế tạo vũ khí của ngành Công nghiệp quốc phòng (CNQP).

Trong “Gặp gỡ - Đối thoại” kỳ này, Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh, Viện trưởng Viện Vũ khí, sẽ cùng phóng viên Tạp chí CNQP và Kinh tế ôn lại hành trình xây dựng, trưởng thành cũng như những đóng góp quan trọng của Viện đối với Quân đội và đất nước.

TỰ HÀO TRUYỀN THỐNG, NỖ LỰC CỐNG HIẾN

Phóng viên (PV): Nói vui một chút, cuối cùng chúng ta cũng gặp được nhau sau những lần lỡ hẹn!

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: (Cười) Nhà báo thông cảm, những tháng cuối năm, chúng tôi đang gấp rút hoàn thành một số nhiệm vụ quan trọng. Nói thật là hôm qua tôi vừa đi chỉ huy một cuộc bắn thử vũ khí về…


Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh.   Ảnh: PV

PV: Câu trả lời làm tôi tò mò! Xin hỏi, đối với một sản phẩm vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) mới nghiên cứu, chế tạo thành công, các anh phải tiến hành bao nhiêu cuộc thử nghiệm?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: Cũng tùy chủng loại, độ phức tạp về hàm lượng khoa học và quy mô của sản phẩm vũ khí, khí tài, đạn dược, trang bị kỹ thuật mà Viện Vũ khí được giao nhiệm vụ nghiên cứu, chế tạo, nhưng có những sản phẩm Viện và các đơn vị được giao nhiệm vụ phải thử nghiệm nhiều lần mới thành công. Đối với VKTBKT, thì chỉ có bắn thử nghiệm mới đánh giá sản phẩm có đảm bảo các yêu cầu tính năng kỹ thuật hay không.

PV: Quả là nhiệm vụ không hề dễ dàng. Trở lại với nội dung chính của cuộc đối thoại hôm nay, tôi được biết, Viện Vũ khí là một trong những cơ sở nghiên cứu khoa học ra đời từ rất sớm của quốc gia. Vậy bối cảnh lúc đó là như thế nào?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: Viện Vũ khí là một trong những cơ sở nghiên cứu đầu ngành ra đời vào ngày 4/2/1947, lúc đó Viện được gọi là Nha Nghiên cứu Kỹ thuật, trực thuộc Cục Quân giới - Bộ Quốc phòng. Thời điểm thành lập Viện chỉ ít tháng sau ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), bộ đội và nhân dân đang rất cần vũ khí để chiến đấu với giặc Pháp. Vì vậy, sự ra đời của Viện rất kịp thời, đáp ứng yêu cầu cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc.

Tôi xin nhấn mạnh rằng, Nha Nghiên cứu Kỹ thuật cũng chính là đơn vị nghiên cứu khoa học đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, Viện trưởng đầu tiên là Giáo sư, Viện sĩ, Anh hùng Lao động, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa.

PV: Chức năng, nhiệm vụ của Viện Vũ khí qua các thời kỳ có gì thay đổi, thưa đồng chí?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: Quá trình xây dựng, trưởng thành, Viện Vũ khí đã nhiều lần thay đổi phiên hiệu. Từ Nha Nghiên cứu Kỹ thuật đến Phòng Thiết kế Cục Quân giới, Viện Thiết kế Quân giới, rồi Phân viện Thiết kế Vũ khí khí tài, Viện Kỹ thuật Vũ khí, Viện Thiết kế Vũ khí và hiện nay là Viện Vũ khí. Dù với tên gọi nào thì chức năng chính vẫn là nghiên cứu thiết kế, chế tạo, cải tiến, sửa chữa các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang nhân dân…

PV: Thưa đồng chí, chắc hẳn, sử vàng truyền thống của Viện Vũ khí có nhiều mốc son rất đỗi tự hào?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: Tôi nghĩ rằng, để có được một viện nghiên cứu đầu ngành có vị thế và uy tín như ngày hôm nay, chính là nhờ sự đóng góp công sức, trí tuệ của các thế hệ cán bộ, công nhân viên, chiến sỹ trong toàn Viện.

Ngay từ những ngày đầu thành lập, Nha Nghiên cứu Kỹ thuật đã tập trung được nhiều cán bộ có trình độ kỹ thuật và trí thức yêu nước là sinh viên, học sinh trung học của các trường kỹ nghệ. Trước tình hình thực dân Pháp dựa vào ưu thế tuyệt đối của xe tăng, xe thiết giáp mở những cuộc tiến công ồ ạt, chớp nhoáng, Nha Nghiên cứu Kỹ thuật đã được giao nhiệm vụ chế tạo loại súng chống tăng, chống xe thiết giáp để trang bị cho bộ đội đánh địch. Sau nhiều lần chế thử, thử nghiệm, trong điều kiện trình độ công nghệ, máy móc còn thô sơ, Nha Nghiên cứu Kỹ thuật đã chế tạo thành công súng và đạn Badôca. Đây là một bất ngờ lớn đối với giặc Pháp. Tiếp đó, Nha nghiên cứu Kỹ thuật đã nghiên cứu, cải tiến, nâng cấp lên hệ vũ khí chống tăng SKZ60, SKZ81, SKZ120 với tầm bắn và uy lực lớn hơn gấp nhiều lần. Ngoài nghiên cứu, chế tạo hệ vũ khí chống tăng, Nha Nghiên cứu Kỹ thuật còn nghiên cứu, chế tạo thành công một số loại vũ khí, như: mìn đè nổ chống tăng, hệ súng và đạn cối cỡ 51mm, bom phóng, súng phóng lựu… góp phần vào thắng lợi chung của Quân đội và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Kế thừa, phát huy truyền thống vẻ vang và những kinh nghiệm quý báu của Nha Nghiên cứu Kỹ thuật, trong kháng chiến chống Mỹ, Viện tiếp tục nghiên cứu thiết kế, chế tạo thành công nhiều loại vũ khí, đạn dược trang bị cho Quân đội và nhân dân, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Tiêu biểu như: hệ vũ khí chống tăng B40, B41, CT-62; hệ súng và đạn cối cỡ 160mm; súng cối giải phóng; súng cối 120mm giảm nhẹ; các loại súng bộ binh CKC, K50, AK, RPK…; các loại lựu đạn chạm nổ; mìn định hướng; mìn phóng và nhiều loại VKTBKT khác.

 

“Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng có năng lực nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sửa chữa, cải tiến hiện đại hóa các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật có tính năng kỹ thuật, chiến thuật cao; góp phần từng bước hiện đại hóa Quân đội”.

(Nguồn: Nghị quyết 06-NQ/TW của Bộ Chính trị)

 

PV: Vâng! Quả là một đơn vị có bề dày truyền thống rất đáng tự hào. Vậy trong giai đoạn đổi mới đất nước, nhất là những năm gần đây, Viện Vũ khí đã tiếp nối và phát huy truyền thống đó như thế nào, thưa đồng chí?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: Tôi xin nói vắn tắt thế này, để đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, những năm gần đây, Viện Vũ khí triển khai nhiều đề tài nghiên cứu khoa học về vũ khí trang bị. Các đề tài có quy mô lớn hơn, các sản phẩm nghiên cứu có tính tích hợp và hàm lượng khoa học cao hơn.

Cụ thể, trong giai đoạn từ năm 2011-2021, Viện Vũ khí đã triển khai hàng trăm đề tài, nhiệm vụ KHCN cấp Quốc gia, cấp Bộ Quốc phòng và cấp Tổng cục. Đến nay, trên 88% đề tài đã đang được áp dụng vào sản xuất và đủ điều kiện đưa vào sản xuất hàng loạt. Nhiều sản phẩm VKTBKT thế hệ mới do Viện Vũ khí nghiên cứu thiết kế, chế tạo thành công giai đoạn này đã góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển CNQP. Cùng với nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, Viện Vũ khí còn thực hiện tốt nhiệm vụ đảm bảo kỹ thuật cho sản xuất quốc phòng tại các nhà máy, kịp thời đáp ứng các tài liệu thiết kế và giải quyết các vướng mắc trong quá trình sản xuất, nghiệm thu sản phẩm, giám sát, thẩm định tài liệu thiết kế...


Trụ sở làm việc của Viện Vũ khí hiện nay.  Ảnh: CTV

GẮN NGHIÊN CỨU VỚI SẢN XUẤT

PV: Nghiên cứu chế tạo vũ khí được coi là lĩnh vực “đặc thù của đặc thù”, vậy đâu là những khó khăn, trở ngại của Viện trong nghiên cứu thiết kế, chế tạo VKTBKT thế hệ mới?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: Vũ khí được coi là sức mạnh và vị thế quân sự mà mỗi quốc gia đều muốn giữ bí quyết cho riêng mình, thậm chí được xếp vào hàng tuyệt mật. Chính vì vậy, việc nghiên cứu thiết kế, chế tạo vũ khí luôn gặp những trở ngại, như: Khó tiếp cận tri thức mới trong lĩnh vực KHCN quân sự tiên tiến, vì hầu hết các nước chỉ hợp tác đào tạo, chuyển giao ở mức độ giới hạn.

Đối với CNQP Việt Nam, hiện nền công nghệ vật liệu cũng còn những hạn chế nhất định. Các trang - thiết bị phục vụ nghiên cứu, thiết bị đo lường, thử nghiệm và hệ thống dây chuyền công nghệ sản xuất tuy đã được đầu tư cơ bản, đáp ứng yêu cầu sản xuất các loại VKTBKT có trong trang bị của sư đoàn bộ binh đủ quân và một số loại VKTBKT thế hệ mới, nhưng với vũ khí công nghệ cao cần phải có hệ thống trang - thiết bị phục vụ nghiên cứu, thiết bị đo lường, thử nghiệm và hệ thống dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại hơn nữa. Đó cũng chính là “cái khó” trong việc nghiên cứu, chế tạo của chúng tôi.

PV: Phương châm “gắn hoạt động nghiên cứu với thực tiễn sản xuất” được Viện thực hiện như thế nào trong thời gian qua, thưa đồng chí?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: Như tôi đã nói ở trên, chức năng chính của Viện Vũ khí là nghiên cứu thiết kế, phục vụ chế tạo, cải tiến, sửa chữa các loại vũ khí, khí tài, đạn dược cho Quân đội và đảm bảo kỹ thuật trong sản xuất tại các nhà máy CNQP. Do đó, Viện luôn gắn hoạt động nghiên cứu với thực tiễn sản xuất. Thực tế cho thấy, qua mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển, trong công tác nghiên cứu khoa học, Viện luôn nỗ lực tạo ra những sản phẩm VKTBKT tốt, được ứng dụng trong sản xuất, trang bị cho Quân đội phục vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Ngược lại, qua công tác đảm bảo sản xuất tại các Nhà máy, nhiều giải pháp, sáng kiến đã được phát huy và phát triển thành các đề tài nghiên cứu khoa học, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và tạo ra những sản phẩm VKTBKT tốt.

Những năm gần đây, nhiều sản phẩm của các đề tài nghiên cứu do Viện chủ trì, ngay sau khi đánh giá nghiệm thu đã được ứng dụng vào sản xuất tại các nhà máy. Tôi cho rằng, việc gắn hoạt động nghiên cứu với thực tiễn sản xuất đang được Viện Vũ khí thực hiện tốt và được minh chứng bằng những kết quả rất cụ thể.

PV: Thưa đồng chí, Chính phủ đã có Nghị định về việc các tổ chức KHCN thực hiện tự chủ về tài chính, liệu điều đó có “gây khó” đối với một cơ sở nghiên cứu khoa học đặc thù như Viện Vũ khí?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: Đối với một cơ sở nghiên cứu khoa học quân sự như Viện Vũ khí, việc tự chủ về tài chính thực sự  khó khăn, bởi lĩnh vực nghiên cứu của Viện rất đặc thù, sản phẩm nghiên cứu là những bộ tài liệu thiết kế phục vụ cho công tác sản xuất VKTBKT tại các nhà máy CNQP. Tuy có nhiều sản phẩm VKTBKT thuộc các đề tài nghiên cứu của Viện được ứng dụng trong sản xuất, trang bị cho Quân đội, nhưng hiện tại, trong lĩnh vực này chưa có các quy định liên quan đến quyền sử dụng thiết kế sản phẩm quốc phòng...

Hiện, các cơ quan chức năng đang xây dựng dự thảo thông tư quy định quyền sử dụng thiết kế sản phẩm quốc phòng, trong đó có quy định chi phí quyền sử dụng thiết kế được tính vào đơn giá sản phẩm quốc phòng. Nếu thông tư được cấp có thẩm quyền ban hành, Viện Vũ khí mới có cơ sở để từng bước chuyển dần sang cơ chế tự chủ về tài chính.


Thử nghiệm vũ khí mới do Viện Vũ khí nghiên cứu, chế tạo.     Ảnh: CTV

ĐẨY MẠNH NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ, CHẾ TẠO CÁC LOẠI VŨ KHÍ MỚI

PV: Tôi được biết, trước khi thi đỗ vào Học viện Kỹ thuật Quân sự, rồi gắn bó với nhiệm vụ nghiên cứu thiết kế, chế tạo vũ khí, đồng chí từng là chiến sĩ của Binh chủng Thông tin - Liên lạc. Có điểm gì giống nhau giữa hai lĩnh vực này không?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: (Cười) Một câu hỏi rất thú vị. Nhưng thật khó có thể so sánh, khái quát đầy đủ sự giống và khác nhau giữa hai lĩnh vực quân sự quan trọng này. Bác Hồ đã từng căn dặn bộ đội Thông tin - Liên lạc, là phải “kịp thời, chính xác, bí mật, an toàn” trong thực hiện nhiệm vụ. Tôi nghĩ, nếu “soi chiếu” phương châm đó với nhiệm vụ nghiên cứu thiết kế, chế tạo vũ khí, tuy có những yêu cầu khác nhau trong từng nội dung, nhưng cũng có thể nói là phù hợp.

PV: Sau mấy chục năm gắn bó với nhiệm vụ nghiên cứu thiết kế, chế tạo vũ khí, đồng chí rút ra điều gì?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: Vũ khí, đạn dược là những sản phẩm đặc biệt và cũng vô cùng nguy hiểm. Do đó, những người làm công việc nghiên cứu, thử nghiệm vũ khí rất cần phải rèn luyện sự điềm tĩnh, cẩn trọng, tỉ mỉ, chính xác, khoa học. Hơn thế, làm việc gì cũng phải biết học hỏi, kế thừa kinh nghiệm của những thế hệ đi trước, có niềm đam mê, lòng nhiệt huyết, tính trung thực, chủ động và sáng tạo.

PV: Vậy đồng chí đánh giá như thế nào về đội ngũ cán bộ, nghiên cứu viên của Viện Vũ khí hiện nay?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: Có thể nói, Viện Vũ khí luôn chú trọng đào tạo nguồn nhân lực KHCN, coi đây là một trong những khâu đột phá để nâng cao năng lực nghiên cứu thiết kế, chế tạo các loại vũ khí mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài. Hiện tại, đội ngũ cán bộ nghiên cứu của Viện có trình độ chuyên môn cao, trong đó trên 85% có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ; được đào tạo chủ yếu tại các học viện, nhà trường có uy tín trong nước và đào tạo tại các nước có nền KHCN quân sự phát triển như: Nga, Séc... Quá trình công tác tại Viện, hầu hết cán bộ nghiên cứu đều có tư duy độc lập, chủ động, sáng tạo; có năng lực nghiên cứu thiết kế, chế tạo các loại vũ khí, khí tài, đạn dược, cơ bản đáp ứng được yêu cầu về nghiên cứu VKTBKT thế hệ mới hiện nay.

 

“Những ai làm công việc nghiên cứu, thử nghiệm vũ khí rất cần phải rèn luyện sự điềm tĩnh, cẩn trọng, tỉ mỉ, chính xác. Hơn thế, làm việc gì cũng phải biết học hỏi, kế thừa kinh nghiệm của những người đi trước, có niềm đam mê, tính trung thực và sự sáng tạo".

  (Đại tá Nguyễn Phúc Linh)

 

PV: Những định hướng lớn được Viện xác định trong thời gian tới là gì, thưa đồng chí?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: Nhằm thực hiện chủ trương của Đảng về hiện đại hóa Quân đội, trên cơ sở kết quả đạt được, kết hợp với tiềm lực KHCN hiện có, trong thời gian tới, Viện Vũ khí sẽ tích cực nghiên cứu, xây dựng kế hoạch phát triển các sản phẩm vũ khí mới, vũ khí công nghệ cao đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Cụ thể, Viện sẽ tập trung nghiên cứu, chế tạo một số loại vũ khí đang có nhu cầu cấp bách trang bị cho Quân đội; đẩy mạnh nghiên cứu, chế tạo một số loại vũ khí thế hệ mới, vũ khí hỏa lực sử dụng cho lực lượng Hải quân, Không quân, các binh chủng, lực lượng đặc biệt...

PV: Nhân kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống của Viện Vũ khí, đồng chí có suy nghĩ gì?

Đại tá, TS. Nguyễn Phúc Linh: Đến tháng 2/2022, Viện Vũ khí tròn 75 năm xây dựng, trưởng thành. Tinh thần “đoàn kết đồng lòng, nỗ lực vượt khó, chủ động sáng tạo” của các thế hệ đi trước đã, đang và sẽ tiếp tục được cán bộ, nghiên cứu viên, nhân viên Viện Vũ khí học tập, phấn đấu noi theo. 

Tôi cũng tin rằng, với bề dày truyền thống và thành tích 2 lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng (danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân của Nha Nghiên cứu Kỹ thuật và danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân của Viện Vũ khí - PV) sẽ là hành trang, là động lực để Viện tiếp tục khẳng định vị thế mới trên chặng đường phát triển, xứng đáng là viện nghiên cứu đầu ngành về nghiên cứu, chế tạo vũ khí của Quân đội và Quốc gia.

PV: Xin trân trọng cảm ơn đồng chí!

LÊ BÁ ANH (Thực hiện)

Bình luận


Họ và tên:*

Đơn vị:     

Điện thoại:*               

Email:*                       

Nội dung: