CNQP&KT - Lâu nay, Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội (thuộc Học viện Quân y) được biết đến như một cơ sở khám và điều trị vô sinh cho các cặp vợ chồng quân nhân hiếm muộn. Trên thực tế, không chỉ có các đối tượng đang công tác trong Quân đội, hàng nghìn cặp vợ chồng thuộc mọi thành phần xã hội đã có hạnh phúc trọn vẹn nhờ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tiên tiến tại Viện. Nhân dịp đón xuân mới Nhâm Dần 2022, phóng viên Tạp chí Công nghiệp quốc phòng và Kinh tế cùng Thượng tá, PGS, TS, Thầy thuốc Ưu tú Trịnh Thế Sơn, Giám đốc Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội, sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về công việc thầm lặng của những “chiến sĩ áo trắng” nơi đây. VẠN SỰ KHỞI ĐẦU NAN! Phóng viên (PV): Xin mở đầu cuộc đối thoại bằng một câu hỏi mang tính cá nhân, cơ duyên nào đưa đồng chí đến với nghề Y, rồi gắn bó với chuyên ngành mô phôi lâm sàng? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Trước hết, xin cảm ơn Ban biên tập Tạp chí Công nghiệp quốc phòng và Kinh tế đã tạo cơ hội để tôi được bày tỏ với bạn đọc về một chuyên ngành rất đặc thù là điều trị vô sinh, hiếm muộn. Đối với câu hỏi của nhà báo, thật khó cắt nghĩa đầy đủ lý do “người chọn nghề hay nghề chọn người”. Nhưng có hai dữ liệu liên quan đến nghề nghiệp của tôi hiện nay, đó là bố mẹ tôi đều từng công tác trong Quân đội và ngày bé tôi rất hay bị ốm, vì thế lớn lên muốn trở thành bác sĩ! Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn PV: Trở lại với nội dung chủ đề. Những thành công trong kỹ thuật hỗ trợ sinh sản của Viện thời gian qua đã làm nhiều người nghĩ rằng, nhiệm vụ chính là… chữa đẻ. Đồng chí có giải thích gì không? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Nói theo ngôn ngữ của giới trẻ thì đúng là đang có một sự hiểu lầm không hề nhẹ (Cười)! Thực ra, “chữa đẻ” chỉ là một trong số các nhiệm vụ chính. Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội (trước đây là Trung tâm Công nghệ phôi, thuộc Học viên Quân y) có 3 nhiệm vụ chính: khám, tư vấn và điều trị vô sinh (cả nam và nữ) cho bộ đội và nhân dân; đào tạo về mô học, phôi thai học và hỗ trợ sinh sản cho tất cả các cấp học tại Học viện Quân y (gồm đại học và sau đại học); nghiên cứu trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, mô phôi thai học, tái tạo mô và tế bào gốc. Ngoài ra, Viện còn có nhiệm vụ hợp tác, hội nhập với các nước trên thế giới để tiếp thu, triển khai và chuyển giao kỹ thuật mới trong lĩnh vực của mình. PV: Hiện nay, việc chữa trị vô sinh bằng các phương pháp hỗ trợ sinh sản, mà điển hình là thụ tinh trong ống nghiệm, không còn quá mới mẻ. Thế nhưng, những ngày đầu đối với Viện hẳn cũng không hề dễ dàng? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Vâng! Có câu “Vạn sự khởi đầu nan”. Những ngày đầu thực sự rất khó khăn với chúng tôi. Thời điểm đó, Viện là 1 trong 2 đơn vị đầu tiên tại miền Bắc triển khai các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Các bác sĩ ít kinh nghiệm, trang - thiết bị, cơ sở vật chất còn rất thô sơ, chưa tối ưu. Tuy nhiên, với sự quyết tâm của cả tập thể, đứng đầu là cố GS,TS. Trần Văn Hanh, chúng tôi đã không ngừng học hỏi, đúc rút kinh nghiệm qua từng ca bệnh, nhờ đó đã đem lại nhiều “trái ngọt” cho các cặp vợ chồng hiếm muộn. PV: Đâu là thế mạnh của Viện trong điều trị vô sinh hiếm muộn? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Có thể nói, sau nhiều năm nỗ lực xây dựng, trưởng thành, Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội tự hào là nơi quy tụ được đội ngũ giáo sư, bác sĩ, chuyên gia đầu ngành, giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm trong điều trị vô sinh hiếm muộn, cùng với đó là hệ thống trang - thiết bị, máy móc chuyên dụng hiện đại. Đến nay, Viện đã làm chủ nhiều kỹ thuật tiên tiến hàng đầu thế giới, giúp tăng tỷ lệ thành công. Quy trình thăm khám, điều trị khép kín, toàn diện; thủ tục đơn giản, rút ngắn thời gian chờ đợi của người bệnh. Tất cả vì mục tiêu giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn được làm cha mẹ. Những năm qua, chúng tôi đã áp dụng nhiều kỹ thuật mới nhằm tăng cao tỷ lệ thành công, như: kỹ thuật micro TESE, kỹ thuật bơm huyết tương giàu tiểu cầu, kỹ thuật nuôi phôi đơn bước; kỹ thuật xét nghiệm di truyền… Giao ban triển khai công việc tại Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội. Ảnh: TUẤN MINH PV: Nhờ Viện, đến nay đã có bao nhiêu cặp vợ chồng hiếm muộn được “lên chức”, thưa đồng chí? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Tôi có thể tự hào nói rằng, Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội là đơn vị đầu tiên trong Quân đội và là đơn vị thứ 3 trong cả nước thực hiện thành công kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Sau khoảng 20 năm nỗ lực không ngừng của Viện, đã có khoảng hơn 10.000 cháu bé được ra đời bằng các phương pháp hỗ trợ sinh sản. Hai cháu bé đầu tiên thực hiện bằng kỹ thuật IVF hiện đang học đại học. CÔNG VIỆC ĐẶC THÙ CÓ THỂ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG SINH CON PV: Tôi được biết, công việc của đồng chí khá tĩnh tại, nhưng đi lại thì hơi nhiều? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: (Cười) Trước đây, bố tôi là bộ đội Phòng không - Không quân, thường xuyên phải di chuyển đơn vị. Mỗi lần như thế ông lại đưa cả gia đình theo. Chính vì thế, tuổi thơ của tôi gắn liền với những lần di chuyển: từ Thanh Hóa vào Bình Định, Đồng Nai, rồi quay ra Huế, tiếp đó là Hòa Bình. Hiện nay, ngoài tham gia đào tạo, làm công tác quản lý, nghiên cứu khoa học và trực tiếp khám, điều trị cho bệnh nhân, tôi còn tham gia các hội đồng khoa học, hướng dẫn nghiên cứu sinh, hỗ trợ, tư vấn, thực hiện thủ thuật chuyên môn tại một số bệnh viện. Do đó, cũng “đi đi, lại lại” nhiều... Cũng xin được bật mí, đến nay tôi đã “đi” nghiên cứu, học tập tại 30 quốc gia trên thế giới. Nhờ những chuyến đi này, tôi đã tiếp thu, tích lũy, áp dụng nhiều phương pháp hỗ trợ sinh sản tiên tiến, đặc biệt là đối với bệnh nhân nam.
PV: Vậy việc ứng dụng các thành tựu khoa học trên thế giới tại Viện như thế nào? Đồng chí có thể nói rõ hơn về phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Hiện nay, Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội có thể tiến hành tất cả các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện đại nhất trên thế giới, trong đó đã triển khai kỹ thuật rất mới là chẩn đoán phôi trước làm tổ không xâm lấn niPGT... Đặc biệt, Viện áp dụng kỹ thuật micro TESE (vi phẫu thuật thu tinh trùng từ tinh hoàn - PV). Khoảng 10 năm trước, tôi được cử đi học kỹ thuật này tại CHLB Đức và là người đầu tiên áp dụng thành công trong điều trị tại Việt Nam. Đến nay, đây vẫn là kĩ thuật tiên tiến và hiệu quả nhất, là thế mạnh của Viện trong việc thu tinh trùng từ những bệnh nhân vô tinh không do tắc. Thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp mà trứng được thụ tinh ở bên ngoài cơ thể. Sau khi tạo thành phôi sẽ được cấy ngược trở lại buồng tử cung của người phụ nữ để phôi làm tổ và phát triển hoàn chỉnh. Kỹ thuật IVF còn được sử dụng như một công cụ trong chẩn đoán di truyền trước chuyển phôi và chọn lọc phôi khỏe mạnh trước khi mang thai. Hiện nay, để loại trừ các trường hợp có nguy cơ mắc bệnh di truyền ở thai nhi, người ta chủ động chẩn đoán di truyền ngay trên các phôi… Sử dụng thiết bị hiện đại phục vụ điều trị cho bệnh nhân hiếm muộn. Ảnh: MINH LÂM PV: Trong Quân đội, những ngành nghề đặc thù nào có thể là nguyên nhân dẫn đến vô sinh, hiếm muộn? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Thực tế, có một số ngành nghề đặc thù trong Quân đội có thể gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Chẳng hạn như những người tiếp xúc với thuốc nổ, hóa chất trong sản xuất quốc phòng, ngành y dược; xử lý chất độc dioxin; các sóng vật lý như sóng radar, tia X… PV: Vậy, những người thường xuyên làm việc trong môi trường hóa chất độc hại phải làm gì để bảo vệ sức khoẻ sinh sản? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Tôi cho rằng, đối với việc phơi nhiễm với các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh sản, người lao động cần mang đồ bảo hộ, đeo mũ, khẩu trang để hạn chế tiếp xúc với các yếu tố độc hại. Ngoài ra, cũng nên thăm khám định kỳ sức khỏe sinh sản, kịp thời phát hiện những bất thường và cần được ưu tiên luân chuyển vị trí công tác… MỖI SỰ THÀNH CÔNG LÀ NIỀM VUI CỦA NGƯỜI THẦY THUỐC PV: Thưa đồng chí, không chỉ bận rộn với công tác đào tạo, quản lý, nghiên cứu khoa học, mà còn trực tiếp thăm khám và điều trị cho bệnh nhân, đồng chí có cảm thấy áp lực? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Có lẽ, tôi đã quen với cường độ làm việc như hiện tại nên cũng không quá bị áp lực. Rất may, sức khỏe của tôi vẫn rất ổn (Cười). PV: Đồng chí có thể chia sẻ những ấn tượng của mình về một vài trường hợp trực tiếp điều trị thành công? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Với hàng chục năm trực tiếp khám, tư vấn và điều trị bệnh nhân hiếm muộn, đối với tôi, mỗi bệnh nhân đều để lại những ấn tượng khác nhau. Sự thành công, niềm hạnh phúc vô bờ bến của các cặp vợ chồng, đều là niềm vui đối với người thầy thuốc. Song có lẽ, ấn tượng lớn nhất đối với tôi vẫn là lúc đón nhận tin vui từ những đồng đội. Những người đã trải qua chặng đường dài điều trị, tưởng chừng vô vọng và bỏ cuộc, nhưng cuối cùng họ đã có được hạnh phúc trọn vẹn. PV: Vậy còn điều gì khiến đồng chí trăn trở? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Tiếp xúc với hàng vạn bệnh nhân, gặt hái được nhiều thành công, nhưng tôi vẫn còn những trăn trở. Đó là hiện nay các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản còn quá đắt so với thu nhập của đa số bệnh nhân. Trong khi đó, bảo hiểm y tế lại không chi trả cho việc điều trị hiếm muộn vô sinh. Mặt khác, thông tin việc điều trị có lúc bị nhiễu loạn, bệnh nhân không biết chọn cho mình một cơ sở điều trị tốt; không ý thức được sự cần thiết để khám và điều trị sớm. Có bệnh nhân mặc cảm, tự ti và đã đánh mất “thời gian vàng” điều trị. Tôi cũng rất trăn trở vì một số cơ quan, đơn vị chưa tạo điều kiện cho những quân nhân hiếm muộn có thời gian khám và chữa bệnh...
PV: Trong điều trị, ngoài yếu tố y thuật lâm sàng, việc chuẩn bị tâm lý cho người bệnh hẳn cũng rất quan trọng, thưa đồng chí? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Đúng thế! Trong điều trị, kiến thức, năng lực của bác sĩ quyết định đến tỷ lệ thành công. Tuy vậy, yếu tố tâm lý cũng vô cùng quan trọng, giúp tăng tối đa tỷ lệ thành công, giảm thiểu các yếu tố bất lợi, tận dụng “thời gian vàng” trong điều trị. Đặc biệt, khi có tâm lý tốt bệnh nhân sẽ có thêm niềm tin, không bỏ cuộc, đồng lòng cùng các thầy thuốc vượt qua khó khăn, đạt kết quả mỹ mãn. Chúng tôi thấu hiểu tâm lý mong ngóng, khát khao có con của các cặp vợ chồng hiếm muộn. Áp lực với họ là rất lớn... Thế nên, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến yếu tố tâm lý, cố gắng tạo cảm giác thoải mái, ân cần giải đáp những thắc mắc mỗi khi tiếp đón và thăm khám người bệnh, kể cả qua điện thoại... Sự tận tình và thấu cảm đó giúp bệnh nhân tin tưởng vào đội ngũ y, bác sĩ, nhân viên của Viện, và từ đó kết quả được cải thiện hơn nhiều PV: Đồng chí có thể cho biết những định hướng lớn của Viện trong thời gian tới, nhất là việc khám, điều trị vô sinh? Thượng tá, PGS, TS. Trịnh Thế Sơn: Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ nâng cấp hơn nữa cơ sở vật chất, chất lượng dịch vụ, chuyên nghiệp hóa các khâu điều trị, phát triển kỹ thuật mới, trong đó có kỹ thuật chuyển nhân. Theo đó, kỹ thuật tiên tiến này giúp việc sinh em bé với 3 bố mẹ, gồm tinh trùng của bố, nhân noãn của mẹ và bào tương của người thứ 3; giúp các cặp vợ chồng loại bỏ một số bệnh di truyền qua tế bào chất, đồng thời cũng giúp những phụ nữ lớn tuổi có thể sinh con. PV: Xin trân trọng cảm ơn đồng chí! LÊ BÁ ANH (Thực hiện) |