Xây dựng Công nghiệp quốc phòng Việt Nam tự lực, tự cường, tiên tiến, hiện đại, lưỡng dụng21/09/2020CNQP&KT - Công nghiệp quốc phòng (CNQP) là một bộ phận của công nghiệp quốc gia, một hợp phần quan trọng của thực lực và tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước. Xây dựng và phát triển CNQP là chủ trương chiến lược, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chăm lo xây dựng, phát triển ngang tầm với vị trí, vai trò của ngành và yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tính từ thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Phòng Quân giới ngày 15/9/1945 (tiền thân của Tổng cục CNQP hiện nay), ngành CNQP Việt Nam đã tròn 75 năm xây dựng và phát triển. Trên cơ sở quán triệt, thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ về xây dựng, phát triển CNQP, kể từ thời điểm đó đến nay, ngành CNQP Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đặc biệt, những năm gần đây, ngành CNQP có bước phát triển vượt bậc, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới, đòi hỏi CNQP phải phát triển mạnh hơn nữa để phục vụ cho quá trình hiện đại hóa lực lượng vũ trang và tham gia công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thách thức và động lực để phát triển nền CNQP tiên tiến, hiện đại cũng có nhiều điểm tương đồng với những thách thức mà nền công nghiệp quốc gia và nền kinh tế quốc dân đang phải đối mặt, đó là: Muốn thoát khỏi nguy cơ tụt hậu thì phải vượt qua “bẫy phát triển trung bình”. Thông thường, một quốc gia nếu tự đáp ứng cơ bản nhu cầu về các chủng loại vũ khí bộ binh thì được coi là đạt trình độ phát triển trung bình về tiềm lực CNQP. Muốn vượt qua “ngưỡng trung bình” thì phải vươn lên làm chủ thiết kế, công nghệ, chế tạo được các chủng loại vũ khí hiện đại, vũ khí thông minh, tích hợp hệ thống, công nghệ cao, v.v. Để làm được điều này, phải có quyết tâm chính trị cao, kiên định đường hướng chiến lược dài hạn và có nhiều giải pháp thực thi hiệu quả; trong đó, phải đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ, nhân lực và thể chế. ![]() Thứ nhất, về xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ. Trên thế giới, việc ứng dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) trong lĩnh vực khoa học - công nghệ quân sự đã được triển khai sớm hơn so với các lĩnh vực công nghiệp dân sinh khác. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Để sẵn sàng đối phó với vũ khí công nghệ cao (nếu xảy ra chiến tranh), một yếu tố quan trọng là phải làm chủ các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, tiên tiến, hiện đại. Theo đó, thời gian tới, chúng ta cần thực hiện một số nhiệm vụ trọng điểm mang tính đột phá, mũi nhọn để tiếp cận và làm chủ các ngành công nghệ mới liên quan tới chế tạo vũ khí cho các quân, binh chủng và các lực lượng được xác định ưu tiên hiện đại hóa trong Chiến lược Quốc phòng Việt Nam. Bên cạnh đó, cần quan tâm thích đáng cho nghiên cứu, sản xuất mới và nâng cao chất lượng các chủng loại vũ khí lục quân “Made in Vietnam” đạt trình độ tiên tiến, hiện đại tương đương với khu vực và thế giới. Theo hướng này, Tổng cục CNQP, các trung tâm, viện nghiên cứu trong Quân đội cần ưu tiên ứng dụng các thành tựu, tiến bộ khoa học - công nghệ; chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, thực hiện “đi tắt đón đầu” trong một số lĩnh vực công nghệ quân sự đặc thù để tạo bước ngoặt về thiết kế - chế tạo các sản phẩm có tính đột phá về tính năng chiến thuật, kỹ thuật. Đồng thời, tiếp tục đầu tư hiện đại hóa các viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm và hạ tầng, phương tiện kỹ thuật phục vụ nghiên cứu thiết kế, chế thử và sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật của ngành CNQP.
Thứ hai, về xây dựng nguồn nhân lực. Trong những năm gần đây, việc đầu tư cho xây dựng, phát triển nguồn nhân lực CNQP trình độ cao đã được quan tâm và có bước chuyển biến tích cực. Tuy vậy, công tác thu hút nhân tài vào làm việc trong ngành CNQP chưa được như mong muốn. Đây là một điểm nghẽn cản trở quá trình làm chủ thiết kế công nghệ liên quan tới vũ khí công nghệ cao và khả năng đóng góp của ngành CNQP trong triển khai cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 ở nước ta. Để thực hiện tốt, cần quan tâm điều chỉnh chế độ, chính sách có liên quan; trong đó, cần ưu tiên đồng bộ cả hai yếu tố: ưu đãi và trọng dụng nhân tài. Bên cạnh chế độ chung cho đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ có trình độ cao trong ngành CNQP, cần có những ưu đãi thích hợp đối với những người có thể đảm đương vai trò “thủ lĩnh”, cán bộ đầu ngành có khả năng quy tụ, phát huy tinh thần tập thể, thực hiện thành công nhiệm vụ khoa học - công nghệ mang tính đột phá, mũi nhọn và đỉnh cao. Đi đôi với chế độ đãi ngộ là chính sách trọng dụng nhân tài. Trong đó, phải tin cậy và giao nhiệm vụ xứng tầm; có định hướng chiến lược và cơ chế đảm bảo nguồn lực ổn định, dài hạn để các nhà khoa học tâm huyết, gắn bó với sự nghiệp xây dựng, phát triển CNQP. Thứ ba, về xây dựng thể chế. Trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, cùng với hiện đại hóa công nghệ của ngành CNQP theo hướng tiên tiến, hiện đại, lưỡng dụng, vấn đề quan trọng là phải đổi mới về tư duy, cách nghĩ, cách làm, mà cụ thể và trực tiếp là đổi mới về thể chế, bao gồm cả tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý, quy hoạch thế bố trí, tái cơ cấu, v.v. Phát huy kết quả đạt được, thời gian tới, chúng ta cần đẩy mạnh rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về CNQP theo hướng đổi mới, hội nhập, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, kết hợp liên ngành, tinh gọn bộ máy, cải cách hành chính, v.v. Các cơ chế chính sách phải bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả và không chồng chéo. Trong đó, cần sớm tổng kết việc thực hiện Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng (năm 2008) và Pháp lệnh Động viên công nghiệp (năm 2003), trên cơ sở đó nghiên cứu, xây dựng Luật Công nghiệp quốc phòng, tạo hành lang pháp lý cho bước phát triển mới của ngành CNQP. Mô hình doanh nghiệp CNQP cũng cần được cơ cấu lại để thích ứng với các yêu cầu hội nhập vào cơ cấu phân công chuyên môn hóa, cơ chế quản lý của công nghiệp quốc gia, hội nhập quốc tế và đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Quy hoạch thế bố trí tiềm lực CNQP phải được điều chỉnh phù hợp với định hướng bố trí lực lượng và nhiệm vụ quân sự, quốc phòng- an ninh đã được xác định trong Chiến lược Quốc phòng Việt Nam và quy hoạch chung của nền kinh tế quốc dân, bảo đảm gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa quốc phòng - an ninh với kinh tế - xã hội.
Những nội dung cơ bản nêu trên nhằm mục tiêu xây dựng nền CNQP Việt Nam “tự lực, tự cường, tiên tiến, hiện đại, lưỡng dụng”. Điều này là hiển nhiên, bởi trong đường hướng chiến lược phát triển CNQP của bất kỳ quốc gia nào cũng đều chú trọng tới khả năng độc lập, tự chủ và giảm tối đa sự lệ thuộc vào nước ngoài. Song, tự lực, tự cường về CNQP không có nghĩa là tự ràng buộc với mô hình khép kín, biệt lập, tự cung tự cấp. Trong bối cảnh hiện nay, tự lực, tự cường chỉ thực sự hiệu quả khi biết tranh thủ các cơ hội thuận lợi thông qua việc mở rộng hợp tác quốc tế và hội nhập sâu rộng vào thị trường quốc tế về vũ khí và công nghệ quân sự. Điều đó cho phép chúng ta chủ động lựa chọn đối tác cung cấp sản phẩm và công nghệ, giá cả, điều kiện hậu mãi, bảo hành, huấn luyện chuyên gia... phù hợp với lợi ích và nhu cầu phát triển của CNQP. Nhờ đó, sẽ giảm bớt sự phụ thuộc trong quá trình thực hiện các mục tiêu chiến lược đã đề ra. Về phương thức hợp tác quốc tế trên lĩnh vực này, cần đa dạng, linh hoạt, đồng bộ cả về chiều rộng và chiều sâu, từ chuyển giao công nghệ, liên doanh, liên kết, hợp tác cùng nghiên cứu, đào tạo nhân lực, phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu, xuất khẩu sản phẩm, đến tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu trong phân công chuyên môn hóa sản xuất, trước hết là các sản phẩm kinh tế và lưỡng dụng... ![]() Để có khả năng tự lực, tự cường, tiên tiến, hiện đại, lưỡng dụng về CNQP thì sức mạnh nội lực, tổng hợp của quốc gia là yếu tố quyết định, nhất là khả năng độc lập, tự chủ trong nghiên cứu phát triển vũ khí mới; cung cấp thiết kế, công nghệ, vật tư, nguyên liệu, tiềm lực dự trữ quốc gia về vật tư cho nhu cầu sản xuất của CNQP khi có chiến tranh xảy ra; nguồn nhân lực, hạ tầng kỹ thuật và nhiều nguồn lực khác. Để từng bước củng cố nội lực đặc thù này của đất nước, cần bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ nêu trong Chiến lược Quốc phòng Việt Nam; kiên định và quyết liệt thực hiện các mục tiêu dài hạn; đồng thời, linh hoạt điều chỉnh các giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm trong từng bước đi cụ thể, phù hợp với tình hình thực tiễn. Một giải pháp quan trọng khác để tăng cường khả năng tự lực, tự cường của CNQP là phải đẩy mạnh kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng; huy động có hiệu quả thành tựu của nền kinh tế quốc dân phục vụ sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật. Theo đó, cần lồng ghép nhiệm vụ xây dựng, phát triển CNQP vào các đề án, chiến lược xây dựng, phát triển của các bộ, ngành, địa phương, nhất là các dự án liên doanh, liên kết với các cơ sở dân sinh hoặc đầu tư hỗ trợ các cơ sở dân sinh nhằm mục đích phục vụ CNQP. Nhu cầu đầu tư cho phát triển CNQP rất lớn. Vì vậy, bên cạnh phát huy hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước, cần tiếp tục đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho nhiệm vụ này, kể cả vốn của các thành phần kinh tế trong nước. Ngoài ra, chú trọng khai thác có hiệu quả các tiềm năng lưỡng dụng để đáp ứng các yêu cầu của quốc phòng và yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chặng đường xây dựng, phát triển CNQP nước ta theo hướngtự lực, tự cường, tiên tiến, hiện đại, lưỡng dụng còn nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm chính trị cao, giải pháp phù hợp và nỗ lực lớn. Trước mắt, để thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển CNQP đã được xác định trong Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Bộ Quốc phòng sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan, tập trung chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện các chương trình, mục tiêu, đề án, dự án xây dựng, phát triển CNQP theo Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị, Quy hoạch xây dựng và phát triển CNQP, an ninh đến năm 2025, tầm nhìn năm 2035... tạo bước chuyển biến mạnh mẽ hơn, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới. Thượng tướng BẾ XUÂN TRƯỜNG Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương Thứ trưởng Bộ Quốc phòng |