(CNQP&KT) - Nghị quyết số 762-NQ/ĐU ngày 6/7/2018 của Đảng ủy Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (CNQP) đã xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan, đơn vị trực thuộc Tổng cục CNQP trong thời gian tới đó là, tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, tạo cơ hội để mở rộng, ổn định thị trường, tăng cường hoạt động xuất khẩu...

 

Xúc tiến thương mại (XTTM) là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội hợp tác mua bán sản phẩm và dịch vụ, bao gồm hoạt động quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu sản phẩm, hội chợ, triển lãm thương mại... Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, XTTM chính là cầu nối giữa các nhà sản xuất, kinh doanh với nhau hoặc giữa các nhà sản xuất, kinh doanh với người tiêu dùng. Nhờ có hoạt động XTTM, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội hơn để mở rộng thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh trong môi trường kinh doanh vốn khắc nghiệt và nhiều rủi ro, mạo hiểm.

Với phương châm “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực CNQP. Thực hiện Nghị quyết số 806-NQ/QUTW ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo; quán triệt những định hướng trong Nghị quyết số 383-NQ/ĐU ngày 27/12/2012 của Đảng ủy Tổng cục CNQP về lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế đến năm 2015 và những năm tiếp theo và Nghị quyết số 762-NQ/ĐU ngày 6/7/2018 của Đảng ủy Tổng cục CNQP về lãnh đạo nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất kinh tế và xuất khẩu sản phẩm quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo, thời gian qua, các cơ quan, đơn vị của Tổng cục CNQP đã chủ động, tích cực kết hợp chặt chẽ các hoạt động XTTM quân sự và hợp tác CNQP với các hoạt động hợp tác quốc phòng khác thành một thể thống nhất để thực hiện tốt hoạt động đối ngoại quốc phòng và hội nhập quốc tế về CNQP. Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng và sự hỗ trợ của các cơ quan liên quan, Tổng cục CNQP luôn bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng trong công tác XTTM, đi sâu tìm hiểu nhu cầu thị trường, hướng tới mục tiêu đa dạng hóa chủng loại, mẫu mã, nâng cao chất lượng các sản phẩm, quảng bá thương hiệu. Đặc biệt, Tổng cục CNQP đã xây dựng và ban hành Đề án “Tăng cường xúc tiến thương mại đến năm 2020” với mục tiêu chính nhằm giới thiệu, quảng bá năng lực nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm quốc phòng và kinh tế của Tổng cục CNQP; thúc đẩy hoạt động xuất khẩu sản phẩm. Sau khi triển khai thực hiện Đề án, công tác XTTM của Tổng cục CNQP đã có những bước chuyển biến tích cực. Cụ thể là, chủ động thực hiện nghiệp vụ XTTM tìm kiếm khách hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm do CNQP sản xuất; nghiên cứu nắm bắt thị trường quốc tế và các đối tác nước ngoài; tổ chức tốt các hội thảo CNQP chuyên ngành và các đoàn công tác tham dự các sự kiện XTTM trong lĩnh vực CNQP và kinh tế đối ngoại. Đặc biệt, công tác XTTM đã có những đóng góp hiệu quả, thiết thực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị, doanh nghiệp trực thuộc Tổng cục CNQP. Theo thống kê từ năm 2012 đến năm 2017, tăng trưởng hằng năm: Doanh thu tăng 12,8%, lợi nhuận từ kinh tế tăng 3,8%, xuất khẩu tăng 14%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 3,8%/năm. Một số mặt hàng kinh tế của Tổng cục CNQP đã có chỗ đứng trên thị trường, tiêu biểu như: các sản phẩm ngành đóng tàu, thuốc nổ, phụ kiện nổ công nghiệp, pháo hoa, cao su, thiết bị điện dân dụng, hàng tiêu dùng và một số mặt hàng cơ khí, luyện kim. Bước đầu, các đơn vị của Tổng cục CNQP đã xuất khẩu được một số sản phẩm quốc phòng cũng như dịch vụ kỹ thuật, lao động sang một số nước.

 

Thượng tướng Bế Xuân Trường, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiểm tra công tác trưng bày các sản phẩm CNQP Việt Nam tham dự Triển lãm Quốc phòng quốc tế Indo Defence 2018 (tháng 9/2018).                                                                                        Ảnh: PV

 Theo báo cáo về xu hướng chuyển giao vũ khí quốc tế 2017 của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), 5 quốc gia xuất khẩu vũ khí lớn nhất thế giới trong giai đoạn 2013-2017 lần lượt là Mỹ, Nga, Pháp, Đức và Trung Quốc, chiếm hơn 70% tổng số vũ khí xuất khẩu trên toàn cầu. Các quốc gia khác khi tiềm lực CNQP đạt đến mức tự lực nghiên cứu, sản xuất đều có xu hướng xuất khẩu sản phẩm CNQP. Các nước tham gia thị trường xuất khẩu vũ khí tiếp theo gồm Ấn Độ, Israel, Nam Phi, Belarus, Ba Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc...

Xuất khẩu vũ khí là phương cách tốt để duy trì sản xuất và lực lượng nhân sự kỹ thuật phục vụ cho phát triển CNQP thay vì phải trông chờ vào ngân sách. Nguồn thu từ xuất khẩu là một nguồn lực nhằm tái thiết và đầu tư phát triển dây chuyền, công nghệ, thiết bị hiện có. ở chiều ngược lại, việc mua sắm, xuất khẩu các sản phẩm CNQP có tính chất đặc thù và những quy định riêng hết sức ngặt nghèo. Hàng hóa, dịch vụ liên quan đến vũ khí, công nghệ quân sự và việc mua bán, chuyển giao chúng trên thị trường thế giới được kiểm soát bởi nhiều văn bản pháp lý quốc tế riêng biệt, bao gồm cả đa phương, song phương, thậm chí cả các chế tài đơn phương của một số cường quốc giữ vai trò chi phối. Xu hướng toàn cầu hóa, chuyên môn hóa và liên kết quốc tế trong lĩnh vực CNQP diễn ra chậm hơn so với các ngành kinh tế dân sự do mua bán vũ khí và công nghệ quân sự là lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm trong các mối quan hệ quốc tế. Nó nằm trong sự phụ thuộc của việc xây dựng lòng tin, gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định trên thế giới và tại các khu vực có liên quan. Do vậy, đối với các nước có nền CNQP đang phát triển, việc xuất khẩu sản phẩm quốc phòng luôn là một câu hỏi và bài toán lớn, chi phối bởi nhiều lợi ích.

Trên cơ sở phân tích nêu trên, đã đến lúc CNQP Việt Nam cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng việc tìm đầu ra, thị trường xuất khẩu cho sản phẩm CNQP “Made in Vietnam”, “Made by Vietnam” một cách bài bản, chuyên nghiệp. Chúng ta luôn phải nghiên cứu, trả lời 3 câu hỏi: Xúc tiến thương mại cho ai (thị trường)? Chúng ta dùng gì để XTTM (sản phẩm)?Ai là người thực hiện công tác XTTM (nhân lực)?

Hiện nay, đối với các đơn vị trong nước, sản phẩm của Tổng cục CNQP đang được cung cấp cho lực lượng vũ trang và chấp pháp trong nước như Quân đội, Công an, Kiểm lâm, Kiểm ngư… Do nhu cầu đặt hàng và khả năng ngân sách đặt hàng quốc phòng còn hạn chế trong thời bình nên những năm vừa qua, tỷ trọng sản xuất, sửa chữa quốc phòng chỉ đạt mức trung bình khoảng từ 20-25% công suất thiết kế của các nhà máy. Một số mặt hàng kinh tế tuy đã có chỗ đứng trên thị trường trong nước và thế giới nhưng chưa thực sự bền vững, chịu sự cạnh tranh gay gắt về giá cả, mẫu mã và chất lượng. Nhiều sản phẩm do CNQP Việt Nam sản xuất tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu nhưng thiết kế, thương  hiệu là của đối tác nước ngoài. Tổng cục CNQP đã xuất khẩu được một số sản phẩm quốc phòng cũng như dịch vụ kỹ thuật, lao động sang một số nước; tuy nhiên, quy mô còn nhỏ lẻ, chưa ổn định, sức cạnh tranh chưa cao.

Điều đó không có nghĩa là các sản phẩm CNQP Việt Nam không có những ưu điểm và sức cạnh trên trên thị trường.Thực tế, các sản phẩm CNQP Việt Nam có những yếu tố cạnh tranh nhất định, phù hợp với nhiều thị trường trên thế giới. Các sản phẩm CNQP như các loại súng, đạn bộ binh, thiết bị thông tin, kính ngắm, quân trang… phù hợp với mọi quân đội, nhất là các lực lượng quân sự có đặc điểm tác chiến như Việt Nam. Có nhiều chủng loại vũ khí có tính năng kỹ, chiến thuật tương đương với sản phẩm của những nước có nền CNQP phát triển nhưng giá thành thấp hơn.Đặc điểm quan trọng nữa là năng lực tự chủ đáp ứng được nhu cầu nguyên liệu đầu vào cho sản xuất dẫn đến độ linh hoạt, mềm mại trong thương mại. Đặc biệt, các sản phẩm nêu trên đã được kiểm nghiệm trong thực tế huấn luyện, phòng thủ và sẵn sàng chiến đấu của quân đội ta và đây là điểm cộng rất lớn đối với vũ khí, trang bị kỹ thuật do CNQP Việt Nam sản xuất trong đánh giá của các thị trường trên thế giới.

Từ thực trạng CNQP Việt Nam và tình hình xuất khẩu vũ khí, trang bị của thế giới, việc xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu, trước mắt là tập trung  nghiên cứu vào thị trường khu vực ASEAN và một số nước châu Phi, Trung Đông có sử dụng vũ khí trang bị hệ kỹ thuật của Liên Xô (trước đây) để tạo tiền đề cho CNQP Việt Nam xuất khẩu sản phẩm ra thế giới. Đối với các nước có quan hệ truyền thống, cần tranh thủ quan hệ chính trị hữu nghị tốt đẹp để hướng tới hợp tác xuất khẩu các sản phẩm CNQP. Đối với thị trường của các nước lớn có nền CNQP phát triển, có thể xuất khẩu các bán thành phẩm vũ khí, trang bị, hợp tác tham gia vào chuỗi phân công sản xuất, cung ứng quốc tế bằng việc liên doanh, liên kết với các tập đoàn đa quốc gia phù hợp với trình độ trong nước và xu thế của thế giới; phấn đấu trở thành một bộ phận trong mạng lưới sản xuất vũ khí, trang bị khu vực Đông Nam Á và thế giới.

 

Thiếu tướng Đoàn Hùng Minh, Phó Chủ nhiệm Tổng cục CNQP tiếp đoàn cán bộ Công nghiệp quốc phòng Myanmar  (năm 2018).                                                                             Ảnh: PV

Có một thực tế là nhân lực thực hiện công tác XTTM còn nhiều điểm hạn chế. Thời gian qua, sau khi có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức của Tổng cục CNQP (Tổng Công ty Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp quốc phòng được điều chuyển về trực thuộc Bộ Quốc phòng, không còn là đơn vị thành viên của Tổng cục), theo đó, Tổng cục CNQP không quản lý đơn vị thương mại, cầu nối giữa các đơn vị sản xuất của Tổng cục với khách hàng trong và ngoài nước. Bộ phận quản lý chuyên trách về công tác XTTM của Tổng cục và hầu hết các đơn vị đều chưa được thành lập, dẫn đến hiệu quả chưa cao, hoạt động chưa chuyên nghiệp, chưa có sự kết nối, chia sẻ thông tin để tạo hiệu ứng đồng bộ và tạo dựng thương hiệu chung cho toàn Tổng cục. Các doanh nghiệp, đơn vị chưa thực sự đầu tư đúng mức nguồn lực cho công tác XTTM cả về tài chính và nhân sự. Trong quá trình triển khai một số nhiệm vụ XTTM, việc tìm được nhân lực đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ thực sự là một bài toán khó, gây những trăn trở nhất định cho những người làm công tác quản lý.

Thời gian tới, các doanh nghiệp thuộc Tổng cục CNQP có cơ hội để khai thác hiệu quả hơn những lợi ích từ các hiệp định thương mại tự do mang lại, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm kinh tế, tiến tới là sản phẩm quốc phòng ra thị trường quốc tế. Đồng thời, thông qua hoạt động XTTM, các doanh nghiệp cũng có cơ hội phát triển thương hiệu, nâng cao giá trị gia tăng trong từng sản phẩm; phát triển sản phẩm mới, tiến tới xuất khẩu giá trị cao và bền vững. Để công tác XTTM của Tổng cục CNQP được triển khai thực hiện một cách hiệu quả, các cơ quan, đơn vị cần thống nhất quan điểm, nhận thức rõ về mối quan hệ giữa năng lực nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, cung cấp dịch vụ của Tổng cục với công tác XTTM. Nếu không có nội lực đủ mạnh, việc triển khai các giải pháp XTTM chỉ mang lại hiệu quả trước mắt, đó là cung cấp sản phẩm, dịch vụ đến khách hàng một cách nhất thời, không xây dựng được uy tín, thương hiệu và chiến lược khách hàng, không đem lại sự thay đổi quyết định đến sự phát triển toàn diện của Tổng cục CNQP. Do vậy, các cơ quan, đơn vị trong Tổng cục CNQP cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:

Một là, lãnh đạo tổ chức tốt việc triển khai Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng; nghị quyết của Đảng ủy Tổng cục CNQP về lãnh đạo nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất kinh tế và xuất khẩu sản phẩm quốc phòng để tạo những bước đột phá về nhận thức và hành động trong toàn Tổng cục; nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, khả năng cạnh tranh; xây dựng chiến lược sản phẩm và chiến lược thị trường. Mở rộng, đa dạng hóa các mối quan hệ hợp tác quốc tế, làm cơ sở để đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu hàng kinh tế, hàng lưỡng dụng và vũ khí, đạn dược do CNQP sản xuất. Các cơ quan, đơn vị xác định rõ đây là khâu đột phá, do vậy, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hợp lý hóa sản xuất, đa dạng hóa, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh.

Hai là, triển khai thực hiện tốt các nội dung, giải pháp trong Đề án tăng cường xúc tiến thương mại đến năm 2020 của Tổng cục CNQP. Tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp CNQP tích cực, chủ động phát triển thị trường, bảo đảm mục tiêu kết hợp quốc phòng và kinh tế trong xu hướng hội nhập quốc tế. Cần đa dạng hóa hơn nữa các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác XTTM, đơn giản hóa các thủ tục hành chính và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động XTTM. Tổ chức tham gia trưng bày các sản phẩm CNQP Việt Nam tại triển lãm quốc phòng quốc tế; trước mắt, tập trung tổ chức thành công việc trưng bày sản phẩm tại Triển lãm Quốc phòng quốc tế Indo Defence 2018 tại Indonesia. Trên cơ sở những kinh nghiệm đạt được, trong tương lai, mạnh dạn đề xuất với Bộ Quốc phòng, báo cáo Chính phủ tổ chức Triển lãm quốc phòng quốc tế tại Việt Nam.

Về phía các doanh nghiệp, cần chủ động nâng cao sức cạnh tranh về giá thành, chất lượng sản phẩm, dịch vụ hậu mãi và chiến lược XTTM.Kết nối doanh nghiệp CNQP với công nghiệp quốc gia trong hội nhập quốc tế và tham gia chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu trong các lĩnh vực chế tạo cũng như xuất khẩu sản phẩm. Nghiên cứu kỹ các hoạt động trong Chương trình XTTM quốc gia hằng năm để triển khai thực hiện phù hợp với đặc điểm của đơn vị mình.

Ba là, đẩy mạnh củng cố, kiện toàn biên chế, tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của công tác XTTM trong tình hình mới; trong đó nghiên cứu, đề xuất thành lập Trung tâm Xúc tiến thương mại và quảng bá các sản phẩm CNQP theo Kế hoạch Hội nhập quốc tế và Đối ngoại quốc phòng giai đoạn 2018-2020 của Bộ Quốc phòng. Chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ làm công tác XTTM. Đó là những cán bộ năng động, nhiệt tâm, có kỹ năng giao tiếp tốt và hiểu biết rõ những vấn đề của doanh nghiệp, hiểu nhu cầu, hoạt động của doanh nghiệp, mục tiêu vươn tới của doanh nghiệp nhằm đáp ứng tốt yêu cầu của doanh nghiệp về tìm kiếm thị trường, đối tác.

 

Thiếu tướng, PGS, TS.ĐOÀN HÙNG MINH

Phó Chủ nhiệm Tổng cục CNQP

 

 

 

Bình luận


Họ và tên:*

Đơn vị:     

Điện thoại:*               

Email:*                       

Nội dung: